CHIA SẺ

Lời Giới thiệu

Tất cả chư Phật kể cả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trong thế giới này là để khai thị cho ta con đường giải thoát khỏi nỗi đau khổ là kết quả của việc ta bám chấp vào một “bản ngã”, sự ô nhiễm như kiêu mạn, tham muốn, vô minh, bủn xỉn và sân hận. Bởi những tà kiến và cảm xúc này, chúng sinh thực hiện những hành động tiêu cực cột trói chính họ vào những nỗi khổ trong sinh tử, đó là chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử.

Để đạt được mục tiêu là sự Giác ngộ, một hành giả cần phải phát triển trí tuệ và những phẩm tính của Đức Phật. Trong giai đoạn phát triển, hành giả tu tập Bồ Tát hạnh nương tựa vào chư Phật và Bồ Tát để nhận được những giáo lý, sự ban phước, gia hộ và quán đảnh của các Ngài. Bằng sự viên mãn của sáu Ba la mật, những Đấng Vĩ đại hay Bồ Tát này tích tập công đức, lòng bi mẫn, trí tuệ và phẩm tính khổng lồ, nhờ đó các Ngài đủ năng lực để cứu giúp chúng sinh.

Một trong những vị Bồ Tát được tôn kính nhất ở Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật bản, Hàn Quốc và Đông Nam Á là Đức Avalokiteshvara (Đức Quán Thế Âm). Người Tây Tạng gọi Ngài là Chenrezig.

Sự Đản Sinh Kỳ diệu của Đức Avalokiteshvara trong cõi Tịnh độ Padmawati

Theo bản văn Mani Kabum, trong cõi Tịnh độ Padmawati (Liên Hoa), có một vị Chuyển luân thánh vương tên là Zangpochog. Vị Vua này muốn có một hoàng nam. Vua thực hiện nhiều lễ cúng dường Tam Bảo để cầu xin được chấp nhận ước nguyện, và cứ mỗi lần cúng dường nhà vua đều sai lính hầu đi hái hoa sen.

Có một lần lính hầu tìm thấy một hoa sen khổng lồ trong hồ. Cánh hoa lớn như cánh chim kên kên và hoa sắp nở. Anh ta vội vã chạy về báo tin cho Vua. Cùng với đoàn quần thần gồm các vị thượng thư, Vua đi tới hồ với nhiều vật cúng dường. Họ tìm thấy ở đó một hoa sen khổng lồ đang nở. Giữa những cánh hoa là một cậu bé khoảng mười sáu tuổi. Thân cậu bé có sắc trắng và tô điểm những dấu hiệu viên mãn của một vị Phật. Ánh sáng chiếu ra từ thân cậu. Cậu bé kêu lên: “Ta cảm thấy thương xót tất cả chúng sinh đang chịu quá nhiều đau khổ!”

Vua và đoàn quần thần thực hiện nhiều cuộc cúng dường, lễ lạy cậu bé, và thỉnh mời cậu về cung điện. Do sự đản sinh kỳ diệu này, nhà Vua tặng cho cậu danh hiệu “Sinh trong Hoa Sen” hay “Tinh túy của Hoa Sen”. Vua cũng tham khảo ý kiến Đạo sư của mình là Đức Phật Amitabha (A Di Đà) về vấn đề này. Đức Phật bảo Vua rằng cậu bé này là một hiển lộ của tất cả những hoạt động của chư Phật. Ngài cũng là hiển lộ của trái tim của tất cả chư Phật. Danh hiệu của Ngài là Avalokiteshvara và Ngài đáp ứng mục đích của tất cả chúng sinh bao la như không gian.

Đức Avalokiteshvara ở Tây Tạng

Ngày xưa, khi vị Vua Tây Tạng là Lha Thothori Nyentsen đang ở trong Cung điện Yumbu Lagang thì từ trên trời một chiếc hộp nhỏ rơi xuống mái cung điện. Hộp được mở ra và để lộ pho Kinh Những Nghi thức của sự Từ bỏ và Hoàn thành (spang-skong phyag-brgya-pa’imdo), một bản khắc Đà-ra-ni Viên Ngọc Như Ý (Cintamanidharani), Kinh Những Phẩm tính Phong phú của Đức Avalokiteshvara (Aryakaranda-sutra), Thần chú Sáu-Âm, và một stupa (tháp) vàng. Nhà vua không biết những Kinh sách đó là gì, nhưng hiểu rằng chúng thật tốt lành. Vua có một giấc mộng lành là sau năm thế hệ nữa, người ta sẽ thấu hiểu ý nghĩa của “những vật tốt lành”.

Vị vua thứ năm sau Lha Thothori Nyentsen là Vua Songtsen Gampo. Ngài cưới công chúa Brikuti xứ Nepal và công chúa Trung Hoa đời Đường tên là Wen-Cheng (Văn Thành). Mỗi công chúa mang một pho tượng Thích Ca Mâu Ni tới Tây Tạng và giới thiệu văn hóa Phật Giáo với xứ này. Đức Vua cảm thấy việc mang giáo lý Phật Giáo tới cho thần dân ngài thật cần thiết. Ngài phái Thonmi Sambhota tới Ấn Độ để học văn phạm và chữ viết. Sau này Thonmi Sambhota phát minh ra mẫu tự và văn phạm Tây Tạng dựa trên Phạn ngữ. Bản Kinh Phật Giáo đầu tiên được dịch từ Phạn ngữ sang tiếng Tây Tạng là Hai mươi mốt Kinh và Tantra (Mật điển) của Đức Avalokiteshvara. Sau đó, nhiều giáo lý Phật Giáo quan trọng khác cũng đựơc phiên dịch.

Vua và thần dân của ngài dấn mình vào thực hành của Đức Avalokiteshvara. Kinh điển được thâu thập và chôn dấu trong những kho tàng riêng biệt. Về sau, những Đạo sư thành tựu là Ngodrup, Nyang và vị thầy Shakya-O đã khám phá những kho tàng này. Những kho tàng được biết tới là Những Tác phẩm được Tuyển chọn của Đức Vua liên quan tới Thần chú “Om Mani Padme Hum” (mani bka-bum).

Nhiều Đạo sư vĩ đại ở Tây Tạng trong quá khứ và hiện tại đã truyền bá giáo lý của Đức Avalokiteshvara cho môn đồ của họ. Có nhiều sadhana (nghi quỹ) được các Đạo sư vĩ đại như thế biên soạn. Trong quá trình thực hành, đích thân các ngài đã nhận lãnh những giáo lý từ Bổn Tôn. Nhiều hành giả Tây Tạng tuân thủ những phương pháp thực hành này để thành tựu trạng thái của Đức Avalokiteshvara và giải thoát bản thân họ khỏi những đau khổ của luân hồi sinh tử. Họ cũng dẫn dắt những người khác tới con đường viên mãn này.

Nhiều tu viện và ni viện cũng hướng dẫn những khóa nhập thất tịnh hóa hàng năm (Nyungne), những Khóa Trì tụng Thần Chú Long trọng cho tu sĩ và cư sĩ. Các Đạo sư cũng khuyến khích việc đúc Thần Chú Sáu-Âm trên những bánh xe cầu nguyện, v.v.. để tích tập công đức. Người Tây Tạng tin rằng tất cả những việc làm này sẽ hỗ trợ cho họ trong tiến trình con đường tâm linh của họ. Họ tin rằng Đức Avalokiteshvara là vị cứu tinh và đấng bảo hộ của họ, trong khi Vua Songtsen Gampo là một Hóa Thân của Đức Avalokiteshvara, và hai vị phối ngẫu của Đức Vua là những Hóa Thân của hai Đức Tara.

Những hành giả Avalokiteshvara

Tiểu sử của các Đạo sư vĩ đại luôn luôn là một nguồn cảm hứng bất tận. Những hoạt động giác ngộ của các ngài làm lợi ích vô số chúng sinh. Ở đây chúng tôi giới thiệu hai Đạo sư vĩ đại đã thực hành giáo lý của Đức Avalokiteshvara và đã đạt được Giác ngộ.

Một trong những Đạo sư vĩ đại là Gelongma Palmo (hay Tỳ khưu ni Lakshmi) sống vào thế kỷ thứ mười hay mười một. Bà sinh trong một gia đình hoàng tộc của Vương quốc Ấn Độ, và xuất gia khi còn trẻ. Bà thọ nhận nhiều giáo lý từ những Đạo sư vĩ đại trong thời đại của bà và thực hành thật tinh tấn. Do nghiệp quá khứ chín mùi, bà bị mắc bệnh phong cùi và bị mọi người ném vào rừng. Bà có một một thị kiến về Vua Indrabodhi, ngài khuyên bà thực hành pháp Avalokiteshvara.

Bà đã trì tụng những thần chú của Đức Avalokiteshvara và về sau liên tục thực hành nhập thất Nyungne trước hình tượng của Bồ Tát này. Nhờ lòng sùng mộ và tinh tấn thực hành, bà đã có thể khỏi bệnh phong cùi. Bà cũng phát triển lòng từ ái và bi mẫn lớn lao đối với tất cả chúng sinh. Bà trở thành một ni cô giác ngộ và đã dẫn dắt nhiều đệ tử trong thực hành của Đức Avalokiteshvara.

Một hành giả vĩ đại khác của thực hành Avalokiteshvara là Thangtong Gyalpo (1385-1509). Ngài sinh ở miền Tsang-thượng ở Tây Tạng. Một hôm, trong khi đang thực hành Thần chú Sáu-Âm, Đức Avalokiteshvara siêu phàm hiện ra trước mặt ngài, chỉ dạy và ban quán đảnh cho ngài. Ngài đạt được giác ngộ nhờ tinh tấn thực hành. Dựa trên sự thực hành và thành tựu của ngài, ngài đã biên soạn sadhana “Vì Lợi lạc của Tất cả Chúng sinh Bao la như Không gian” để dẫn dắt chúng sinh trong thực hành của Đức Avalokiteshvara. Bản văn này được tìm thấy trong mọi trường phái Phật Giáo Tây Tạng.

Ngài có thể nhớ lại đời trước ngài là Gelong Padma Karpo (hay Tỳ kheo Bạch Liên). Trong đời đó, từ năm 20 tới 80 tuổi, ngài đã thực hành Nhập thất Nyungne Avalokiteshvara thật kiên định. Thậm chí ngài còn có thể nhớ được ngài đã khẩn cầu Đại Bồ Tát này ra sao. Lời khẩn cầu này được ghi lại trong những lời cầu nguyện Phật giáo và được truyền tới ngày nay.

Sau khi giác ngộ, ngài cũng khám phá nhiều kho tàng giáo lý được cất dấu, và đã giới thiệu giáo lý của Đức Phật cho nhiều người. Ngài đã tô tạo vô số hình tượng, Kinh sách và các stupa (tháp) tượng trưng cho thân, ngữ và tâm của Đức Phật. Ngài đã thiết lập hơn một trăm cầu phà và cầu treo bằng sắt để làm lợi lạc chúng sinh. Để khuyến khích thiện hạnh trong dân chúng và để hỗ trợ cho phí tổn của công việc xây dựng, ngài đã miêu tả cuộc đời của những Bồ Tát trong quá khứ trong những vở nhạc kịch dân gian. Trong thời đại của ngài, mọi hoạt động của ngài thật không thể nghĩ bàn.

Shangpa Tulku Rinpoche

Việt dịch: Thanh Liên

Trích: Đức Avalokiteshvara và Thần Chú Sáu âm