CHIA SẺ

Luân hồi tái sinh là một đề tài ngày càng được quan tâm trong thế giới ngày nay; với những tài liệu và chứng cứ về tái sinh mỗi ngày một nhiều, chúng tôi nhận thấy sự lý giải về tái sinh của Phật giáo Tây Tạng có vẻ hợp lý, rõ ràng, có tính cách khoa học và thuyết phục hơn cả.

Sự hiểu rõ tiền kiếp, đâu phải chỉ để thỏa mãn tính tò mò? Vả lại, cần gì phải tìm tòi để biết rõ đời trước ta là ai? Cho dù kiếp trước bạn từng là ông hoàng bà chúa, mà hiện thời bạn chỉ là một người hành khất, thì điều này đâu có thay đổi được số phận hiện nay của bạn? Trước những vấn đề tế nhị trên; những bậc thầy người Tây Tạng đã có những giải đáp rất hấp dẫn, nhưng cũng thật phức tạp khiến chúng ta phải trăn trở suy tư. Họ nói rằng chúng ta không chỉ sống một đời này, mà đã sống nhiều đời, nhiều kiếp, đến nỗi ta không thể truy tầm kiếp sống khởi điểm từ đâu và sẽ chấm dứt ở thời điểm nào? – Theo họ, chúng ta sống từ đời này qua đời khác; mỗi một đời, ta học hỏi những bài học về tâm linh, trả những nghiệp lành, nghiệp dữ, đã tạo ra ở những đời trước, và đồng thời cũng tạo nên những nghiệp mới sẽ ảnh hưởng đến đời sau của mình.

Mọi cuộc đời đều được khởi lên từ tâm thức, nói ngắn gọn là “tâm” của mình tạo nên. Tâm thức không có điểm khởi đầu cũng như kết thúc. Nó là một dòng chảy liên tục luôn luôn thay đổi. Đừng lầm lẫn tâm thức với não bộ của ta. Tâm thức vô hình vô tướng, không giống như chất xám trong đầu óc ta. Dĩ nhiên giữa tâm thức và não bộ có một tương quan mật thiết, giống như dòng điện và bóng đèn. Không có điện thì đèn không sáng, nhưng bóng đèn không đồng nghĩa với dòng điện.

Đại thể tâm thức là như vậy; Song để hiểu rốt ráo tâm thức là gì, các bậc thầy phải học hỏi trong 30 năm mới trở thành một “geshe” (tương đương với học vị tiến sĩ thần học). Sau đó phải trải qua nhiều năm thiền định mới thấu hiểu nội dung của ý thức trong tâm thức. Do vậy, những lời giảng dạy của các bậc thầy về nghiệp về nhân quả thật uyên áo, nhiều khi không khác gì những lý luận của khoa tâm lý học hiện đại. Theo Phật giáo thì không phải cha mẹ, hoàn cảnh, hay trình độ học vấn đã tạo nên con người của mình và hoàn cảnh sống của mình trong đời hiện tại, mà chính bản thân mình, chính cá nhân chúng ta đã tạo ra hoàn cảnh sống của mình ở quá khứ hiện tại và vị lai.

Tất thảy do luật nhân quả chi phối; do nghiệp lực dẫn dắt mà chúng ta chọn cha mẹ, chọn cộng đồng để tái sinh. Nên vấn đề gen di truyền ưu việt mà ta thừa hưởng từ cha mẹ từ cộng đồng cũng không nằm ngoài sự chi phối của luật nhân quả.
Một khi ta ngộ ra là mình đã phải lang thang từ kiếp này qua kiếp khác không ngưng nghỉ, với những nghiệp lành nghiệp dữ, phải trải qua vô vàn lần chết đi sống lại. Lẽ dĩ nhiên bạn cũng như chúng tôi đều muốn kết thúc cuộc hành trình mệt mỏi vô cùng tận này. Và đó chính là sứ mệnh của mỗi người phải gắng sức tu tập để giải thoát khỏi bánh xe luân hồi sinh tử, để đi tới một nơi an lạc thanh bình vĩnh cửu. Đức Phật ra đời chính là để giúp mọi chúng ta thực hiện mục đích thiêng liêng cao cả đó. Tuy nhiên tùy theo duyên nghiệp mà mỗi người có một con đường tu chứng khác nhau; nên đức Phật cũng dạy không nên chấp nhận sự chỉ dẫn của Ngài một cách sơ cứng, mà tự mình phải luôn luôn kiểm chứng trong quá trình thực hành những lời dạy của Ngài.

Tóm lại tu tập là để thăng tiến về tâm linh, làm chủ được ý thức tâm thức, tiến tới làm chủ được sự sinh tử của mình. Một thiền sư đắc đạo khi sắp chết, thay vì thụ động nằm chờ thần chết đến lôi đi như phần đông chúng sinh, hàng sơ cơ chúng ta. Vị này ngồi ngay ngắn điềm tĩnh duy trì sự tỉnh giác trọn vẹn, để có thể theo dõi thần thức của mình trải qua các giai đoạn của tiến trình chết, trước khi rời khỏi thân ngũ uẩn. Trong những trường hợp đặc biệt cần thiết, những vị này có thể sử dụng phương pháp phowa, một phương pháp hướng dẫn thần thức thoát khỏi thân xác để đi đến một nơi khác. Thế nên vào những thời khắc khó khăn của lịch sử Tây Tạng đã có cả hàng trăm thiền sư đã dùng phowa để thần thức thoát khỏi thân xác đang bị hành hạ. Ở những vùng rừng núi, nhiều vị còn thi triển thêm một bước nữa, là họ không để lại gì sau khi thần thức đã thoát đi. Họ đã đạt tới hiện tượng thân cầu vồng (Rainbow Body).

Gần đây, hiện tượng tái sinh của các Lạt ma Tây Tạng ở nhiều nơi khác nhau tại phương Tây. Những vị này tuy không cao cấp nổi tiếng như Lạt ma Osel, nhưng họ đã tái sinh với một sứ mệnh rõ ràng. Ấy là sự cố gắng san bằng các chướng ngại địa lý Đông Tây, nối liền những phân cách văn hóa và chủng tộc để dòng tuệ giác Phật giáo từ cội nguồn Ấn Độ – Tây Tạng có thể tuôn chảy khắp vùng đất xa lạ của phương Tây. Bằng việc làm này, họ đã trực tiếp giảng giải về giáo lý tái sinh như ý nguyện của chính mình, như một minh họa sinh động cho lời dạy về giáo lý luân hồi tái sinh nhiệm màu của đức Phật.

Trong số những hóa thân nói trên, đặc biệt vào dịp ngày phụ nữ quốc tế 8 – 3 – 2012 chúng tôi xin lưu ý bạn đọc: Lần đầu tiên một phụ nữ Hoa Kỳ chính thức được công nhận là một bậc đạo sư cao cấp Tây Tạng hóa thân (tulku) – Bà là người đã ngày đêm cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Được chính thức công nhận từ năm 1988, bà ít khi xuất đầu lộ diện. Tên của bà là Giét-sun-ma A-kon No -bu La-mo (Jetsunma Ahkon Norbu Lhamo). Bằng nỗ lực cá nhân, bà đã tạo lập một trung tâm tu học ở ngay ngoại thành thủ đô Washington. Đó là một đạo tràng thật hoành tráng uy nghi – một sự kết hợp giữa hai nền văn minh Âu Á, song nét nổi bật vẫn là những điện thờ trang nghiêm theo lối Đông phương mà nhìn vào ta nhận ngay ra đây là nơi chính điện của một trung tâm Phật giáo Tây Tạng. Giét-sun-ma là một phụ nữ đẹp một cách đôn hậu trông bình thường như những phụ nữ Hoa Kỳ khác, với y phục màu nâu nhạt thật trang nhã, ở bà toát ra một vẻ ân cần hiền dịu rất thân thiện. Như nhiều phụ nữ phương Tây khác, bà trải qua nhiều cảnh ngộ, đời tư đã một lần ly dị, nay có ba người con, hai con trai đã ngoài 20 tuổi, và một con gái nuôi năm tuổi. Hàng ngày bà vẫn sinh hoạt bình thường: nấu ăn, mua sắm và chăm sóc gia đình như những phụ nữ khác.

Theo truyền thống Tây Tạng cổ xưa, bà được phong tặng danh hiệu “Jetsunma”, một danh hiệu còn cao quý hơn “Rinpoche” thường dành cho những vị hóa thân nam giới. Người ta nói rằng bà đã chứng đắc quả vị cao, nên có thể tự mình chọn nơi tái sinh vào một thời điểm thích hợp – có thể thuyết pháp mà không cần qua một thời gian tu học Phật pháp đúng như thuật ngữ “Sinh nhi tri” của nhà Phật nghĩa là sinh ra đã biết mọi thứ mà không cần phải học. Thật là một thành quả hiếm có. Khác với những vị hóa thân nổi tiếng thường được theo dõi khám phá từ lúc còn nhỏ để định hướng tu tập; bà Jetsunma không được ai phát hiện, bà cũng không được tu học ở một tu viện Tây Tạng nào để phát triển tiềm năng. Bà đã tự tu tập, âm thầm lập nên sự nghiệp hoằng pháp của mình ngay giữa nước Mỹ xa lạ với truyền thống Phật giáo Đông phương mà không cần một sự trợ giúp nào. Trung tâm hoằng pháp của bà với những thảm cỏ đẹp, những phòng ốc tuyệt vời, và một tăng thân gồm cả nam lẫn nữ tu đông đảo theo bà về đây tu học, đã nói lên sự thành công ấy. Bà quả là một Đạo sư đặc biệt.

Bà thường nói về một quá khứ không mấy vui vẻ của mình. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở Brooklyn, từng chịu nhiều khổ nhục. Bố dượng theo Công giáo, mẹ theo Tin lành. Bà kể: Nếu như ở nhà thờ họ hành xử một cách thánh thiện, thì khi trở về nhà họ lại là những kẻ bạo hành đối với con cái, mà bà là nạn nhân thường xuyên. Thế nên khi 17 tuổi, theo lời khuyên của cảnh sát, bà đã rời bỏ gia đình. Bà nói: “Đó là một giai đoạn khó khăn, nhưng tôi thấy có thể tự lo cho mình nên tôi quyết định ra đi. Mọi việc sau đó đều ổn vì tôi có thể tự xoay xở được”.

Tuy nhiên, những bất hạnh của tuổi thơ dường như đã dọn đường cho đời sống định mệnh của bà. Những bạo hành xảy ra trong gia đình khiến bà nhạy cảm đối với khổ đau của mọi người, cả thân lẫn tâm, trong khi ảnh hưởng của hai hệ thống giáo dục Do Thái giáo và Công giáo ở Hoa Kỳ, đã giúp bà thấu hiểu về văn minh và lối sống ở phương Tây; một sự hiểu biết rất cần thiết khi bà giảng dạy một triết lý sống khác; đó là Phật giáo. Những trải nghiệm cá nhân sẽ giúp bà hiểu rõ tâm tư của những người đến nghe pháp.
Bà là một đứa trẻ hướng về đời sống tâm linh, nên từ nhỏ bà đã có lòng sùng kính đức Jesus và điều đó còn kéo dài cho đến bây giờ. Bà nói: “Tôi rất sùng kính đức Jesus và luôn nghĩ Ngài là một trong những vị Bồ tát lớn của nhân loại”. Vào năm 10 tuổi, bà đã có những giấc mơ về những cảnh giới khác lạ. Và bà đã đọc lên những lời cầu nguyện từ trong tiềm thức mà bà cho rằng mình tự sáng tác. Có một điều chắc chắn là lớn lên trong một gia đình đa tôn giáo, bà không hề biết gì về Phật giáo Tây Tạng. Chỉ sau này bỗng dưng hành đạo mà không hề có ai chỉ dẫn, cũng không có một ảnh hưởng huyền bí nào khiến bà tự nhiên thuyết pháp, giảng dạy giáo lý của nhà Phật như một đạo sư. Bà kể, những diễn biến tâm linh đến với bà từ những giấc mơ – trong đó bà được chỉ dẫn cặn kẽ kể cả việc thực tập thiền định mà trước đó bà không hề hay biết gì. “Điều đầu tiên tôi được chỉ dẫn là phải nguyện từ nay về sau làm bất cứ việc gì cũng phải vì lợi lạc cho mọi người. Thế nên mỗi lần ngồi thiền là tôi đọc lời nguyện như sau: Con nguyện đem đời con dâng hiến phục vụ mọi người, con sống chỉ là để làm lợi lạc cho mọi người”. Jetsunma không biết rằng, đó chính là lời nguyện trong Phật giáo Tây Tạng. Và cứ thế mỗi ngày bà thiền định và mò mẫm tìm hiểu những gì mình cần làm. Cứ như vậy, trong những giấc mơ tiếp theo, bà được hướng dẫn quán niệm câu hỏi “Nếu những thứ tôi sở hữu trên đời này đều không đáng gì vì chúng không trường cửu, vậy thì cái gì đáng giá?” Và bỗng dưng bà thấy mình đang chiêm nghiệm về một thực thể tuyệt đối, một chân lý rốt ráo, một tuệ giác bản nhiên, một đề tài thiền quán rất sâu sắc và rất huyền nhiệm của đạo Phật.

“Tôi không thể diễn tả điều đó bằng lời, nhưng tôi biết, điều tôi đang chiêm nghiệm không phải về một thượng đế tối cao. Điều tôi chiêm nghiệm cho đề mục thiền quán là một sự tinh túy trùm khắp cả hình tướng lẫn không hình tướng của vạn pháp nhất như, vô phân biệt. Tôi thấy rõ chân giá trị là ở đây. Và những hành động biểu hiện tình thương chỉ là một hình thức thể hiện chân lý ấy”. Có thể nói những gì mà Jetsunma ngộ ra qua hành thiền. Chính là những gì mà những đại sư du già, những học giả trong các tu viện Tây Tạng phải học hỏi trong nhiều năm mới có thể đi đến những kết luận đó. Vậy mà ở đây một phụ nữ trẻ (khi đó Jetsunma mới ngoài 20 tuổi) không sư phụ, không sách vở nghiên cứu, cũng không biết gì về một chủ thuyết nào, đã khám phá ra hai sự thật cần thiết là trí tuệ và Từ bi, là đôi cánh của Phật giáo, đôi cánh giúp ta bay thẳng đến bến bờ giác ngộ – không có đôi cánh này, bạn không thể nâng mình lên khỏi mặt đất – thật là một thành quả đáng khâm phục.

Công phu thiền định của bà mỗi ngày một tiến bộ, vào khoảng 30 tuổi bà đã trải qua một kinh nghiệm tâm linh, và ngộ ra rằng – bà ra đời là để phục vụ chúng sinh. Bà không tâm sự với ai về khám phá này, nhưng thật lạ lùng, là đúng vào thời điểm này; mọi người đã tìm đến bà để học hỏi. Ông Wib Middleton (W.Mit-đô-tơn), một trong những thiền sinh đầu tiên. Hiện làm giám đốc hành chính của thiền viện, kể lại: “Chúng tôi gặp bà năm 1981, khi gia đình bà đã dọn về Washington. Nhóm chúng tôi khoảng chừng 10 người, có thể gọi là nhóm người THỜI ĐẠI MỚI (new age) khao khát đi tìm ý nghĩa của cuộc sống, khao khát muốn tìm hiểu mỗi người chúng tôi cần phải làm gì để đóng góp cho xã hội. Bởi chúng tôi không biết phải làm gì. Nhìn quanh thì thấy phần nhiều những gì trào lưu THỜI ĐẠI MỚI đưa ra dường như chỉ để phục vụ cá nhân. Khi mới gặp bà, thấy bà nói nhiều về tâm thức của thế giới, về sự nhạy cảm của hành tinh và nhất là sự rung động của “tính không” (emptiness). Những ý tưởng thật mới lạ. “Chúng tôi xin được bà hướng dẫn và bà đã nhận lời. Bà bắt đầu chỉ cho chúng tôi phương pháp tập thiền, tiếp theo là phần thảo luận do bà hướng dẫn. Bây giờ nhìn lại chúng tôi thấy phương pháp dạy dỗ của bà rất hay; lúc nào bà cũng tìm cách giúp đỡ một cách cụ thể cho những người có nhu cầu đặc biệt. Tuy nhiên, sự tiến bộ về tâm linh của Jetsunma đã khiến đời sống vật chất của gia đình bà tuột giốc. Tài chính và tiện nghi rất thiếu thốn. Gia đình bà sống trong căn nhà chỉ có một phòng, không bàn ghế, đồ đạc phải đựng trong những thùng nhựa cũ. Vậy mà bà nhất định không nhận thù lao của thiền sinh…

Ông Wib kể tiếp: “Trước tình hình cấp thiết của Jetsunma, chúng tôi thấy cần mở lớp học đàng hoàng và mọi người sẽ đóng học phí. Mặc dù bà nhất định không chịu. Chúng tôi nói mãi rằng đây không phải là trả thù lao như bà nghĩ. Chúng tôi thật sự cần lập hội có ban quản trị để lo tổ chức các lớp học. Và dự án này cuối cùng đã được thực hiện. Chúng tôi lập một trung tâm mang tên “Center For Discovery and New life”. Sau đó trung tâm lớn dần; hàng tuần có nhiều lớp đến nghe giảng. Các bài giảng của bà ngày càng phong phú thâm sâu. Bà nói về tâm bản thể, về hư vô, về những thân vi tế … vào thời điểm ấy chúng tôi dùng ngôn ngữ siêu hình của phương Tây để diễn đạt những quan điểm của phương Đông. Và không hề nghĩ mình là những Phật tử.

Cứ như vậy cho đến mùa xuân năm 1985 cuộc đời của Jetsunma bật mí sang một trang mới. Khi Ngài Padma Norbu Rinpoche, gọi tắt là Penor Rinponche là vị truyền thừa thứ XI của dòng Payul của phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng muốn ghé thăm Washington để cảm ơn những ân nhân đã giúp đỡ những đệ tử của Ngài, nhân chuyến đi hoằng hóa đầu tiên ở Hoa Kỳ. Các thiền sinh cùng Jetsunma vui mừng lắm nhưng họ không biết gì về Penor Rinpoche, mà họ cũng không biết nên đón tiếp Ngài như thế nào. Khi nhóm người đi đón ngài ở sân bay, họ đã thấy rất đông người Hoa cũng có mặt để đón Ngài. Các thành viên của trung tâm Discovery and Newlife không hề biết P. Rinpoche là một Lạt ma cao cấp. Ngài đã thành lập nhiều trung tâm hoằng hóa ở châu Á. Hiện ở Tây Tạng, Ngài đã trông nom cho cả trăm ngàn tăng ni đang tu học trong cả ngàn tu viện … Penor Rinpoche vốn có một khát vọng lớn – từ nhỏ Ngài luôn cầu nguyện trong kiếp này, cho Ngài được gặp hóa thân của Genyenma Ahkon Lhamo, một nữ Đạo sư, người đã cùng với anh trai của bà sáng lập dòng tu Payul ở Tây Tạng năm 1665 – mà Ngài hiện là người đang thừa kế của dòng tu – bởi P. Rinpoche tin chắc rằng hóa thân của bà đang sống đâu đó trên thế giới này. Và Ngài đã được gặp hóa thân người anh trai của bà, một người Tây Tạng hiện đang dạy học ở Ashland, thuộc tiểu bang Oregon. Nhưng với những hóa thân nữ, ngài biết là rất khó tìm, dù họ cũng chứng đạt đến đỉnh cao của ý thức, nhưng họ tự do tự tại hơn, và không có một hệ thống cụ thể nào được đặt ra để đi tìm kiếm họ.

Cuối cùng thì do duyên nghiệp đưa đẩy, việc gì phải đến ắt sẽ đến. Bà Jetsunma kể: Đã nhìn thấy Penor Rinpoche khi những người Hoa bao quanh Ngài tản ra, Ngài khá thấp chỉ cao khoảng 1,5m. Và lạ thay, vừa nhìn thấy Ngài nước mắt bà đã tuôn trào! Bà tự nhủ: “Ôi, đây là tâm thức của tôi… Là trí tuệ của tôi… là tất cả đây rồi.” mặc dù lúc này bà còn chưa biết con người thấp đậm đã làm bà xúc động đến chảy nước mắt sẽ là vị đạo sư của bà. Cuộc gặp gỡ định mệnh cũng lạ lùng giống như cuộc đời của Jetsunma.

Sau đó họ cùng nhau trở về trung tâm. Suốt một tuần lễ, P. Rinpoche hỏi han từng người xem Jetsunma đã dạy họ những gì. Và sau cùng Jetsunma cũng gặp riêng Ngài và bà biết đó là thầy của mình để sám hối vì đã nhận dạy thiền sinh mà không hề có chút học hỏi nào từ các bậc thầy. Bà nói: “Con đã tự cho phép mình được hướng dẫn các thiền sinh vì thấy xung quanh đầy rẫy khổ đau, con phải làm một cái gì. Lý do thứ hai là con thấy phương pháp con chỉ dẫn cho họ có hiệu quả. Nhưng điều con không hiểu là do đâu mà con có được những bài giảng đó. Thầy hãy nói cho con nghe những hiểu biết này từ đâu đến”. Penor Rinpoche nói: “Trong tiền kiếp trước đây, con đã từng thực hành hạnh Bồ tát, là một người sống để phục vụ cho những người khác, để giải thoát cho chúng sinh. Do miên mật thực tập hạnh Bồ tát nên ở những kiếp sau, con đã mãi mãi ghi nhớ. Nó đã nằm sâu trong tiềm thức; đến độ con sẽ không bao giờ quên được.” Rồi Ngài khuyến khích bà tiếp tục công việc đang làm, và xác quyết rằng bà đã đi đúng hướng. Sau hết Ngài nói như tiên đoán rằng: bà cần phải mua một trung tâm thật sự, một nơi khang trang để thờ phụng. Biết bà còn băn khoăn lo ngại, Ngài nói “Không cần phải lo nghĩ gì hết, rồi các con sẽ mua được. Đó sẽ là một ngôi nhà lớn mà trước hiên có những hàng cột trắng, cứ tin như vậy đi đừng sợ”.

Sau khi P. Rinpoche rời khỏi. Cả nhóm bắt đầu tìm mua nhà, và họ tìm được ngôi nhà rất đẹp và thích hợp cho chương trình sinh hoạt của họ. Ngôi nhà quả có nhiều cột trắng ở hiên trước, nhưng giá nhà thì cao quá. Họ phải gom góp tiền bạc của mọi người, tổ chức gây quỹ và mượn ngân hàng một số tiền lớn. Cuối cùng họ mua được ngôi nhà, bây giờ là trung tâm KPC. Chỉ trong vòng 5 năm KPC trở thành một trung tâm tu học Phật giáo Tây Tạng lớn nhất Hoa Kỳ. Ngày Chủ nhật hàng tuần thường có rất đông người trong vùng đến nghe Jetsunma thuyết pháp.

Tuy nhiên, cho đến lúc này, bà vẫn chưa biết mình là ai? Một năm sau khi gặp P. Rinpoche, bà thấy nhớ vị thầy đã ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc đời của mình. Nên bà quyết định đi Ấn Độ viếng tu viện Bylakuppe của thầy. Khi gặp lại thầy ở tu viện, bà xin thầy được thụ giới Bồ tát. Người thụ giới Bồ tát thường được thầy cho một tên riêng. Và rồi vào một ngày khi mặt trăng ở vào một vị trí đặc biệt, Penor Rinpoche cho gọi bà đến và tuyên bố: “Hôm nay ta sẽ đặt tên cho con; ông nói: “Tên con là Ahkon Norbu Lhamo.” Qua lời thông dịch viên, vị lạt ma trưởng lão tuyên bố “Giờ đây ta long trọng tuyên bố, con là em gái của Kunzang Sherab. Tên của vị ấy là Ahkon Lhamo. Con và anh con đã sáng lập dòng tu Palyul. Ta chính thức công nhận con là hóa thân của bà ấy.”

Sau đấy P. Rinpoche trao cho bà một tấm bằng chứng nhận bà đủ thẩm quyền giảng pháp. Rồi ngài nói cho Jetsunma biết những nét chính về tiền thân của bà. Ahkon Lhamo đời trước là đệ tử ruột của Terton Migyur Dorje, một vị tu hành nổi tiếng đã tiết lộ nhiều bí lục. Bà đạt địa vị Thiên nữ (Daikini), ẩn tu hàng mấy chục năm trong hang động. Bà chỉ xuống núi khi giúp anh bà ở tu viện mà thôi. Người ta phải đến hang động của bà xin được chữa bệnh và học pháp. Sau những sự kiện trên; Penor Rinpoche tới thăm trung tâm KPC lần thứ hai vào năm 1988. Và chính thức làm lễ trao truyền mũ áo cho Jetsunma Ahkon Lhamo. Tin tức về một phụ nữ Hoa Kỳ 39 tuổi được công nhận là hóa thân của một Đạo sư Thiên Nữ Tây Tạng nổi tiếng lan đi rất nhanh. Giới truyền thông truyền hình đổ xô về trung tâm KPC. Tờ International Herald Tribune đăng ở trang đầu “Xin giới thiệu Ahkon Norbu Lhamo, một vị thánh Tây Tạng. Tờ Washington Post đưa tin “Một sự tái sinh vô tiền khoáng hậu.” Hình ảnh của bà cũng xuất hiện trên tờ tuần báo nổi tiếng People. Những tạp chí lớn ở Đức và ở Nhật cũng đăng tải đầy đủ về câu chuyện hiếm có này…

Sau khi được nhìn nhận là Lạt ma hóa thân, bà muốn cạo tóc làm ni cô nhưng Penor Rinpoche không tán thành. Theo ngài; bà cứ nên là một cư sĩ thì sẽ có ảnh hưởng đến nhiều người hơn. Bà cũng thấy vậy, và muốn giữ hình ảnh của một phụ nữ phương Tây đúng với lứa tuổi của mình trong cách ăn mặc và suy nghĩ. Jetsunma luôn thấy mình như một cây cổ thụ, gốc rễ gắn sâu vào hệ thống tín ngưỡng huyền bí của phương Đông, nhưng cành lá lại nở hoa kết quả ở phương Tây. Tuy vậy, những mâu thuẫn không làm bà mơ hồ, bà luôn biết rất rõ con đường hành đạo của mình, bà nói: “Tôi nghĩ rằng, chúng tôi sẽ trung hòa như thế này: Nghi lễ và phương pháp thì chúng tôi vẫn thực hành tại thiền đường này. Những lời Phật dạy sẽ không thay đổi, nhưng phương pháp giảng dạy có thể thay đổi; đó là sự đổi thay một cách uyển chuyển như khi Phật giáo được truyền từ Ấn Độ vào các nước phương Bắc như Miến Điện, Thái Lan, Nhật Bản hay Trung Hoa… Một hiện tượng quan trọng hàng đầu khi nói về sự hiện diện của Phật pháp phương Tây là sự xuất hiện của các vị tái sinh tại đây. Bởi cho dù những vị Lạt ma Tây Tạng hiện nay có tự hào là rất hiểu suy nghĩ của người phương Tây, họ cũng không sao thấu đáo được. Có nhiều chuyện, chúng tôi bị họ hiểu lầm, và ngược lại chúng tôi cũng có thể hiểu lầm họ. Chuyện này luôn xảy ra. Nên mặc dù họ rất giỏi, nhưng nhiều khi họ chưa biết cách giảng dạy thế nào cho người phương Tây hiểu được đúng đắn. Thế nên tôi thấy việc quan trọng nhất cần xảy ra và đó là điều ngày đêm tôi cầu nguyện là có thêm nhiều bậc thầy Tây Tạng tái sinh ở phương Tây hơn nữa.

Là một bậc chân tu khiêm nhường giản dị. Mỗi lần nhìn trung tâm thiền đường bề thế theo kiểu Tây Tạng với một tăng đoàn gồm nhiều thiền sinh nam nữ theo bà tu học. Bà vẫn chưa hết cảm giác ngạc nhiên; không hiểu sao lại có thể được như vậy. Bà nói: “Tôi không phải là một con người sùng đạo và thấy những giáo điều cùng lễ nghi thật mệt mỏi; ngay như cách cư xử sao cho đúng vai vế phép tắc cũng rất phiền hà; tôi đâu có quen với những phép tắc này. Thật sự, tôi chỉ muốn tìm một hang động nào đó để ẩn tu. Tôi muốn làm một người bình thường với một cái tâm từ bi vô lượng. Nếu nói rằng tôi có một đạo giáo nào, thì tôi chỉ muốn học theo Đức Đạt Lai Lạt Ma mà tuyên bố rằng đạo của tôi là đạo từ bi – Tôi chỉ mong muốn có vậy thôi – Nói vậy, nhưng tôi biết chắc rằng: Chỉ có Phật pháp là có thể mang lại hiệu quả tốt cho thế giới ngày nay. Phật pháp đưa ra những đáp án đúng cho cuộc sống. bởi Phật pháp được thai nghén từ trí tuệ của đấng Giác Ngộ và chắc chắn sẽ đưa mình đến con đường Giác Ngộ. Vì vậy mà tôi quyết tâm nghiên cứu và thực hành Phật pháp”.

Bà nói thêm: “ Nhân quả hay nghiệp (Karma) là một định luật rất đơn giản, nhưng nghiêm ngặt. Lối sống của ta, cách hành xử của ta là do tâm ta điều khiển. bất cứ chuyện gì xảy đến cho ta cũng có một nguyên nhân của nó, mà nguyên do nằm ngay trong dòng tâm thức của ta”. Jetsunma thành thật thừa nhận; một đôi khi bà thấy khó chấp nhận những điều này: “Chính bản thân tôi cũng có lúc hoang mang lắm, khi thấy các hành vi độc ác không bị trừng phạt, và những việc không hay thường xảy ra với những người rất tử tế. Chẳng hạn như một anh bạn của tôi, đã gặp quá nhiều bất hạnh. Tôi luôn gặp anh và rất thương cảm, nên cho rằng anh là nạn nhân. Từ thuở ấu thơ, anh đã bị hành hạ đánh đập rất tàn nhẫn. Hoàn cảnh sống hiện thời của anh rất khó khăn tội nghiệp! Nhìn chung, mỗi khi gặp những trường hợp tương tự, chúng ta thường có khuynh hướng oán trách; nên cứ nghĩ mình là nạn nhân, vì mình đâu có làm gì nên tội! Nhưng phải thấy rằng, sự thật không đơn giản như vậy”. Vấn đề ở đây, là chúng ta chỉ biết được những gì xảy ra trong một hiện kiếp ngắn ngủi mà thôi. Trong khi theo nhà Phật, chúng ta đã sống qua vô lượng kiếp từ vô thỉ đến nay. Hỏi làm sao thống kê được hết những đúng, sai, thiện, ác mà “cái tôi” nghiệp chướng của chúng ta đã làm. Thế nên, nếu như trong bát “súp nghiệp” của cuộc đời bạn có nhiều vị đắng, thì bạn cũng đừng nên phàn nàn, mà hãy gắng nuốt trọn như một phương thuốc giải nghiệp, để những bát súp từ nay về sau sẽ ngọt ngào thơm thảo. Với trải nghiệm của một bậc tái sinh vĩ đại. Bà luôn khuyến cáo: Chúng ta phải tranh đấu để hoán chuyển những nghiệp xấu, phải có niềm tin sâu sắc vào Phật pháp, phải nương nhờ một vị thầy hướng dẫn cho chúng ta khống chế được những thói hư tật xấu – chúng ta phải sáng suốt cầu xin: “Chúng con hoàn toàn bị nghiệp chi phối, xin đức Phật chỉ ra cho chúng con một con đường tu tập để vứt bỏ những nghiệp chướng sâu dày, để chúng con không còn bị dẫn dắt bởi nghiệp.” Theo bà: Quan niệm đơn thuần cho rằng chết rồi lại được tái sinh là một lối thoát tuyệt diệu là một niềm tin sai lầm. Đối với người Phật tử, quan niệm chết rồi được lên thiên đường là một quan niệm quá ư đơn giản. Nếu thực sự được như vậy thì chúng ta phải cảm ơn CHÚA TỐI THƯỢNG! Quan điểm của đạo Phật tin rằng nếu mình chưa chứng đắc thì sự tái sinh của mình sẽ còn bị nghiệp đưa đẩy. Chỉ khi đạt quả vị Giác ngộ, ta mới có thể lựa chọn tái sinh như ý nguyện.

Có thể nói kiếp này của Jetsunma quả là một hóa thân vĩ đại. Những vị Lạt ma Tây Tạng đến Hoa Kỳ đều nói rằng: “Quý vị không biết bà là ai đâu?” Rồi họ hạ giọng, nói một cách kính cẩn; “bà là hiện thân của TA RA đấy” có nghĩa là hình ảnh của một vị Phật thị hiện. Được hỏi: “bà ước muốn được thành tựu những gì trong đời này, bà nói: “Thật không thể tưởng tượng được tất cả những việc tôi muốn làm: Trung tâm này dĩ nhiên luôn luôn sẽ là một trung tâm Phật giáo. Nhưng tôi muốn trung tâm được đón nhận cả những người không phải Phật tử. Tôi muốn tạo dựng một thánh địa cho mọi người chiêm bái hành hương. Ở Hoa Kỳ không có một nơi nào mà người Mỹ theo đạo Phật có thể cảm thấy gần gũi và sờ mó được cái tâm của đức Phật. Tôi muốn có một nơi như vậy.

Tôi muốn xây một an dưỡng đường, một nơi mà những bệnh nhân tin sâu Phật pháp có thể đến để chết một cách bình an, để được cầu nguyện, hành lễ theo nghi thức tôn giáo. Tôi muốn thành lập một trường học cho trẻ em, không phân biệt tôn giáo, để dạy chúng những đức tính như không cạnh tranh, sự tử tế, sự hợp tác, sự tự tại, biết tôn trọng trái đất, biết luật nhân quả và nhất là biết thương yêu. Chúng tôi đã bắt đầu khởi công thực hiện dự án này.”
Sau hết “Tôi muốn thành lập một đại học Phật giáo ở đây tại thiền viện này cho những ai muốn học hỏi về giáo lý của đạo Phật ở cấp cao. Bởi hiện giờ Phật pháp được truyền bá ở nhiều quốc gia có tình hình chính trị không mấy ổn định. Vẫn biết không có cái gì là trường cửu, nhưng tôi thấy ở Hoa Kỳ tình thế có vẻ ổn định. Và nếu chúng ta có một trung tâm Phật pháp ở đây thì công việc hoằng pháp sẽ dễ dàng thuận lợi hơn”.

Đúng như bà nói, lý do bà tái sinh là để phổ biến giáo lý của đức Phật dưới nhiều dạng thức; là để phục vụ tha nhân, để giúp đỡ cho nhân loại vơi bớt khổ đau. Và như ta đã thấy, Jetsunma Ahkon Lhamo đã sống thật tốt đẹp với vai trò sứ mệnh tái sinh của bà.

Thanh Hà

Tư liệu sử dụng: Tái sinh ở phương Tây của tác giả Vicki Mackenzie