CHIA SẺ

Một nỗi đau sâu đậm đôi khi có thể làm tâm trí ta tỉnh ngộ và khiến ta mở lòng ra với những người khác. Muốn sự mở lòng này trở thành tâm thái thường trực, có một cách thực hành đặc biệt là thông qua hơi thở, thầm trao đổi hạnh phúc của chúng ta với niềm đau của người khác và cầu mong rằng nỗi đau của chúng ta sẽ thay thế cho nỗi bất hạnh của họ.

Có thể chúng ta sẽ nghĩ rằng mình đã có quá nhiều chuyện đau đầu rồi, rằng nhận vào mình những đau khổ của người khác là tăng thêm nữa gánh nặng cho bản thân và là đòi hỏi quá nhiều. Tuy nhiên, chính điều trái ngược lại xảy ra. Kinh nghiệm cho thấy rằng bằng lòng cảm thông, nếu chúng ta chấp nhận, chuyển hoá và làm tan biến đi trong suy nghĩ nỗi khổ niềm đau của người khác thì không những điều đó không làm cho ta đau khổ thêm, mà ngược lại, đau khổ của chính chúng ta lại biến mất. Lý do là bởi tình thương yêu tha nhân và lòng cảm thông là những phương thuốc mạnh nhất để trị nỗi đau khổ của chính chúng ta. Vì thế, đây là một tình huống mà ai cũng được lợi lạc! Trái lại, chỉ chăm chăm nghĩ tới những nỗi đau của mình, để “cái tôi” luôn luôn đè nặng tâm trí, sẽ làm hao mòn ý chí của chúng ta và chỉ khiến nỗi lo sợ của chúng ta tăng lên mà thôi. Ngược lại, suy ngẫm mang tính vị tha về nỗi đau của người khác sẽ phá vỡ thành trì của tính ích kỷ và sẽ giúp ta dũng cảm lên bội phần.

Việc thực hành trao đổi này là một phương pháp thiền quán đặc biệt hữu hiệu để tăng trưởng lòng vị tha và lòng cảm thông. Khi đối mặt với khổ đau của người khác, tự nhiên chúng ta sẽ thiên về xu hướng thông cảm và giúp đỡ họ.

Thiền

Hãy bắt đầu bằng việc cảm nhận một tình cảm vị tha mạnh mẽ dành cho một người có lòng từ bao la đối với chúng ta, như mẹ ta chẳng hạn. Hãy suy nghĩ về lòng tốt của mẹ: mẹ đã sinh ra ta sau những ngày tháng bụng mang dạ chửa cơ cực và những đau đớn ê chề; dần dần chúng ta lớn lên, mẹ đã quên mình chăm lo cho chúng ta và sẵn sàng hy sinh tất cả, trước hết vì hạnh phúc của các con.

Để trong ta nảy sinh một lòng cảm thông mạnh mẽ, hãy tưởng tượng rằng mẹ của mình đang phải trải qua những đau khổ xót xa, rằng bà hoàn toàn trắng tay, đang đói lả, khát khô, hoặc đang bị những kẻ độc ác hành hạ. Chúng ta cũng có thể tưởng tượng những cảnh đau thương mà bà phải chịu đựng, bà hoặc bất kỳ ai mà chúng ta chọn làm đối tượng để thiền: một em bé, một người bạn trung thành, một con vật gắn bó thân thiết với mình…

Trong lúc chúng ta chìm ngập trong nỗi thương cảm thống thiết như vậy, hầu như không thể chịu nổi trước cái đau của người đó, hãy để trong ta khởi lên lòng cảm thông mạnh mẽ. Rồi, đợi khi lòng cảm thông khi choán hết tâm trí ta, hãy trải rộng nó ra tới tất cả các chúng sinh, hãy nghĩ rằng họ cũng có quyền được hưởng tình yêu thương đó.

Cũng có thể tưởng tượng một con nai đang bị toán thợ săn và bầy chó của họ rượt theo. Bị dồn đuổi, quá sợ hãi, chú nai nhảy từ một vách đá xuống và bị ngã đập xương; toán thợ săn tìm thấy nó đang hấp hối liền dùng dao kết liễu đời nó.

Hãy để cho mọi loại khổ đau được khắc họa rõ nét trong tâm trí chúng ta. Hãy mường tượng ra cảnh những người già hoặc những con bệnh đang quằn quại trong cơn đau, những kẻ bần hàn hầu như chẳng còn gì để tồn tại. Hãy nghĩ tới những người thiếu thốn đủ mọi thứ, cũng như những người là nạn nhân của chính tâm thức họ và khổ đau đến điên dại vì những dằn vặt, lo âu, do nỗi thèm khát hoặc thù hận của mình. Đừng quên bao trùm tình thương yêu và lòng thông cảm này tới tất cả những ai ta coi là thù địch và gây rối. Hãy quán chiếu trước mặt tất cả các chúng sinh được tập hợp thành một biển người rộng lớn, nhớ rằng cũng như chúng ta, họ đã phải chịu muôn vàn khổ đau của các kiếp sống trong vòng luân hồi.

Khi chúng ta cảm thấy lòng bi mẫn trào dâng, hãy bắt đầu thực hành pháp trao đổi. Hãy quán rằng khi thở ra, chúng ta gửi vào hơi thở niềm hạnh phúc, sức sống, của cải, sức khoẻ của mình đến tất cả những ai đang khổ đau dưới dạng mật hoa màu trắng, tươi mát và óng ánh. Hãy cầu mong cho họ cứ tự nhiên mà nhận những lợi lạc này và coi rằng mật hoa sẽ thoả mãn mọi nhu cầu. Nếu cuộc sống của họ bị hiểm nguy, hãy tưởng tượng rằng nó sẽ được kéo dài; nếu họ nghèo túng, hãy tưởng tượng rằng họ sẽ có tất cả những gì cần thiết; nếu họ đau ốm hãy cầu mong cho họ khỏi bệnh; và nếu họ bất hạnh, hãy mong cho họ tìm ra hạnh phúc.

Khi hít vào, chúng ta hãy nhận về mình mọi bệnh tật, mọi rối loạn tâm thần và thể xác, cũng như những cảm xúc gây rối loạn của các chúng sinh kia dưới dạng một khối mờ đen và nghĩ rằng việc làm này sẽ giúp họ bớt khổ. Hãy nghĩ rằng những đau khổ của họ đến với chúng ta như màn sương bị gió xua tan. Khi nhận vào để chuyển hoá và thanh trừ tất cả nỗi đau đớn của họ, hãy cảm nhận một niềm vui lớn, chúng ta trải nghiệm nó mà không có sự bám chấp vào đó.

Lặp đi lặp lại cách làm này nhiều lần, cho tới khi nó trở thành bản chất thứ hai của bạn. Đừng bao giờ cho rằng mình đã làm đủ bổn phận đối với những người đang rơi vào cảnh thương tâm.

Chúng ta có thể thực hành phương pháp này vào bất cứ lúc nào và trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là lúc chúng ta đau khổ.

Trong trường hợp này, việc kết hợp lòng vị tha với lòng bi mẫn trước những nỗi đau của chính mình sẽ có tác động như dầu thơm xoa dịu nhức nhối, và khiến ta mở lòng ra với mọi người, thay vì khép mình lại theo kiểu vị ngã. Chúng ta có thể làm bài tập này ngoài các khoá thiền, hoặc đưa nó vào thiền và áp dụng nó trong mọi hoạt động của cuộc sống thường nhật.

Cách thứ nhất

Khi thở ra, hãy nghĩ rằng trái tim của chúng ta là một quả cầu sáng rực rỡ, từ đó toả ra những tia sáng trắng mang niềm hạnh phúc của chúng ta tới tất cả các chúng sinh ở mọi hướng.

Khi hít vào, hãy nhận về mình mọi nỗi khổ niềm đau của họ dưới dạng một đám mây đen dày đặc, đám mây này đi vào tim chúng ta và tan biến trong ánh sáng trắng, không để lại dấu vết.

Cách thứ hai

Tưởng tượng rằng thân thể chúng ta được phân ra thành muôn hình vạn trạng để đi tới những nơi tận cùng của vũ trụ. Chúng nhận về mình mọi đau thương của tất cả những người gặp trên đường và trao tặng họ hạnh phúc của chúng; tưởng tượng rằng thân thể chúng ta biến thành quần áo cho những ai đang giá lạnh, thành đồ ăn cho những người đói khát, hoặc thành chốn nương thân cho những người vô gia cư, hình dung rằng mình trở thành “mầm ước”, cao hơn mình một chút và sáng rỡ màu xanh ngọc, mầm ước này đáp ứng một cách tự nhiên mọi nhu yếu của tất cả những ai cầu tới nó.

Cách thực hành này cho phép kết hợp hơi thở với sự phát triển lòng bi mẫn. Vì nó rất đơn giản nên ta có thể tập vào bất cứ lúc nào trong sinh hoạt hàng ngày, khi ngồi trên tàu, khi xếp hàng, lúc bị tắc đường, hay khi chúng ta có được một lúc nghỉ ngơi giữa các hoạt động trong ngày.

Làm dịu cơn đau thể xác

Đau đớn thể xác là một kinh nghiệm mà ai cũng gặp phải trong cuộc đời. Ấy vậy mà mỗi người phản ứng với nó lại rất khác nhau. Cảm giác đau có thể bị phóng đại ghê gớm do nỗi lo muốn dập tắt nó. Ngược lại, người ta cũng có thể chịu đựng một cách tốt hơn, ngay cả đối với các bệnh kinh niên, một khi biết thay đổi thái độ của mình trước cơn đau và tìm thấy ở đấy một ý nghĩa nào đó.

Những nghiên cứu trong khoa học thần kinh đã chứng minh tầm quan trọng của việc suy diễn cảm giác trong lúc trải nghiệm cơn đau. Một số thử nghiệm đã được tiến hành trên những người tình nguyện bằng cách kích thích gây đau trên cánh tay họ, lúc đau ít lúc đau nhiều, rồi yêu cầu họ nhận xét cảm giác về mức độ đau đớn này. Vài ngày sau, số tình nguyện viên này được chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất được thông báo sẽ phải chịu thử nghiệm với mức độ kích thích dữ dội hơn lần trước, nhưng thực ra họ chỉ bị kích thích đau nhẹ hơn. Nhóm thứ hai được thông báo sẽ chịu mức kích thích nhẹ hơn lần trước, nhưng thực ra, họ lại chịu mức kích thích đau mạnh hơn. Vậy mà nhóm thứ nhất nhận xét rằng họ cảm thấy đau đớn hơn lần đầu, còn nhóm thứ hai thì lại cảm thấy ít đau hơn lần trước.

Như vậy, trong trải nghiệm về đau đớn, việc lường trước mức độ nặng hay nhẹ của cơn đau mà ta sẽ cảm nhận có vai trò quyết định. Nói một cách tổng quát hơn, thông qua hiệu quả thử nghiệm áp dụng với placebo (khiến người ta nghĩ rằng sẽ bớt đau, trấn an; đem lại lạc quan) hoặc nocebo (khiến người ta nghĩ rằng mình sẽ bị đau đớn, bị hại; gây bi quan), có thể khẳng định rằng tâm thức có ảnh hưởng đến thân thể và kết quả trải nghiệm về đau đớn.

Như vậy, đau nhiều hay ít phụ thuộc phần lớn vào sự vận hành của tâm thức. Chúng ta chịu đựng cơn đau tốt hơn nếu biết trước được về thời gian kéo dài và mức độ của nó. Nhờ thế, chúng ta sẵn sàng đón nhận nó và làm chủ nó tốt hơn so với khi không biết cơn đau sẽ tăng lên và sẽ kéo dài bao lâu nữa. Nếu cơn đau hoàn toàn vượt quá sức chịu đựng của mình và chúng ta không biết nó sẽ kéo dài đến bao giờ, khi đó, tâm thức chúng ta sẽ có nguy cơ bị khổ đau choán ngợp.

Ngược lại, gắn một ý nghĩa nào đó cho cơn đau sẽ giúp chúng ta chịu đựng nó dễ dàng hơn. Đó là trường hợp chúng ta cho rằng cơn đau kia sẽ mang lại cho mình một điều lợi lạc lớn hơn. Ví dụ như chúng ta chấp nhận những tác dụng phụ của một phác đồ điều trị bởi vì nó khiến ta hi vọng sẽ khỏi bệnh. Người ta cũng có thể chịu đau vì lợi ích của một ai đó. Đó là trường hợp của một người họ hàng hoặc một người  bạn sẵn sàng hiến máu của mình hay một bộ phận của cơ thể mình để cứu mạng người thân. Đối với một vận động viên thể thao cũng vậy, đôi khi người đó cũng phải chịu đựng những cơn đau ghê gớm trong khi tập luyện. Người đó hoàn toàn chấp nhận chúng vì mục đích là luyện cho giỏi hơn. Một số vận động viên điền kinh khẳng định rằng càng đau, họ càng thích bởi vì chúng cho họ biết cường độ luyện tập ra sao. Họ tỏ ra kém chịu đựng đối với một đau đớn bất ngờ xảy ra, hoàn toàn chẳng có gía trị gì, ví dụ như đau do bị trấn thương trong quá trình luyện tập chẳng hạn. Việc gán cho cái đau một ý nghĩa sẽ cho ta có quyền lực đối với nó, loại trừ mối lo lắng đi liền với hoảng hốt và bất lực. Trái lại, nếu chúng ta sợ hãi, phản kháng, nản chí, không hiểu biết, hoặc có cảm giác bất lực, chúng ta sẽ phải chịu thêm nhiều đau đớn khác nhau nữa thay vì chỉ phải chịu một nỗi đau đớn.

Những ca khó nhất là những cơn đau mãn tính, nhức nhối và dai dẳng, liên tục lấn át mọi cảm giác khác. Khi ấy, trong đầu ta chỉ còn cơn đau thống trị, nó chi phối toàn bộ mọi quan hệ của chúng ta với thế giới bên ngoài: mỗi suy nghĩ và mỗi hành động đều là đau đớn. Tôi đã từng nghe một người bệnh tâm sự: “Một cơn đau xói gan xói ruột kinh niên cũng hệt như một viên sỏi bị ném xuống ao: âm hưởng của nó lan toả trong cả cuộc đời mình, chẳng có chỗ nào để thoát được.”

Tuy nhiên, cái đau có thể dữ dội, nhưng không thể vì thế mà phá hoại được cái nhìn lạc quan về cuộc đời của chúng ta. Nếu có được trạng thái an lạc nội tâm ở một mức độ nào đó, chúng ta sẽ duy trì sức mạnh của tâm, hoặc lấy lại được nó dễ dàng và nhanh chóng hơn, dù có bị rơi vào những tình huống hiểm nghèo.

Một số người đã từng sống sót sau một tai nạn, sau một trận tra tấn, hoặc sau những đau đớn khốc liệt của hoàn cảnh nào đó, đã khẳng định rằng họ cảm thấy “thương người” hơn trước, và cảm nhận thế giới quanh mình sâu sắc hơn khi ngắm nhìn vẻ đẹp của thiên nhiên và những con người họ gặp. Họ nói rằng “xem mỗi thời khắc của cuộc sống như một kho báu vô giá[i]” .

Từ đó, làm cách nào để làm chủ cơn đau thay vì là nạn nhân của nó? Nếu đằng nào cũng phải đau thì tốt hơn cả là sử dụng nó, hơn là xua đuổi nó. Dù ta có chìm đắm  trong thất vọng hoàn toàn, hay giữ được tâm trí mạnh mẽ và lòng ham sống đi nữa, thì trong cả hai trường hợp, cơn đau vẫn cứ hiện diện; nhưng ở trường hợp thứ hai, rõ ràng ta có khả năng giữ được phẩm giá và niềm tin vào mình, đây là điều làm nên sự khác biệt lớn.

Để làm được điều này, đạo Phật dạy nhiều phương pháp khác nhau. Chúng tôi sẽ giải thích bốn phương pháp.

Thứ nhất, là chỉ đơn giản quan sát cơn đau, không suy diễn, trong trạng thái ý thức trọn vẹn được nó.

Thứ hai, là phải nhờ tới một hình ảnh trong tâm thức.

Thứ ba, là cho phép chuyển hoá cơn đau thành sự giác ngộ về tình thương và lòng bi mẫn,

Và cuối cùng, thứ tư là xem xét bản chất của khổ đau và mở rộng ra, là bản chất của một tâm thức đang đau khổ.

1. Ý thức trọn vẹn

Chúng ta hãy dồn toàn bộ tâm trí quan sát cảm giác đau, không suy diễn, không xua đuổi, cũng không sợ hãi. Hãy toàn tâm toàn ý trải nghiệm giây phút hiện tại. Như thế, mức độ đau vẫn được cảm nhận nguyên vẹn, nhưng không còn gây sợ hãi nữa.

Những nguồn cảm hứng

“Đa số trong chúng ta coi đau đớn là mối đe doạ tới sự an toàn của thân thể. Vậy mà, nếu chúng ta để cho cơn đau choán hết tâm trí thì ta sẽ chỉ càng thấy đau hơn. Trái lại, nếu dùng cái đau làm đối tượng của thiền quán thì nó sẽ trở thành một phương tiện để làm tâm thức ta càng sáng hơn lên.” -Yongey Mingyou Rinpoche

Làm cách nào để biến cơn đau thành một đối tượng thiền quán?

“Một tâm thức thanh tịnh và không bị sự kiện kia lấp kín sẽ cảm nhận cơn đau như một luồng năng lượng, không hơn không kém. Không nghĩ ngợi. Không xua đuổi. Chỉ có năng lượng […] Song tâm thức sẽ khái niệm hoá những trải nghiệm như kinh nghiệm về đau đớn. Bạn sẽ thấy mình đang nghĩ về “đau”. Đó là một khái niệm. Đó là một nhãn hiệu, là cái gì đó thêm vào chính cảm giác đau. Và bạn xây dựng một hình ảnh về đau đớn trong tâm thức, coi nó như một thực thể […] Rồi cứ như thật, bạn sẽ thấy mình đang nghĩ: “Tôi đang bị đau ở chân”. “Tôi” là một khái niệm, là cái gì đó ở bên ngoài, được gán thêm vào kinh nghiệm đơn thuần.

Khi bạn đưa cái “tôi” vào tiến trình suy nghĩ, bạn đã ngăn cách thực tại với ý thức vô ngã đang ngắm nhìn thực tại ấy. Những suy nghĩ như “tôi”, “của tôi”, “thuộc về tôi” không hề có chỗ trong chân tâm. Đó là những điều thêm thắt ở bên ngoài, có tính chất đánh lừa. Khi bạn đưa “cái tôi” vào cuộc, bạn đã coi mình chính là sự đau đớn. Kết quả là cơn đau càng tăng. Còn nếu bạn bỏ mặc “cái tôi” ở bên ngoài, bạn sẽ không cảm thấy cơn đau thấm thía nữa. Đó chỉ là một dòng năng lượng đơn thuần.”- Bhante Henepola Gunaratna.

2. Năng lực của hình ảnh trong tâm thức

Hãy tưởng tượng một dòng mật hoa bổ dưỡng, sáng trắng đang ngấm vào chỗ nào đau nhất, làm cơn đau dần dần tan đi và cuối cùng chuyển thành một cảm giác an lạc. Rồi dòng mật hoa đó ngấm vào toàn bộ cơ thể và cảm giác đau biến dần. Nếu cường độ của cơn đau tăng lên, hãy tăng hơn nữa năng lực của dòng mật hoa bằng cách nghĩ rằng mỗi nguyên tử đau đớn giờ đây được thay thế bằng một nguyên tử dễ chịu. Hãy biến chính đau đớn thành niềm phúc lạc như vậy.

3. Năng lực của lòng bi mẫn

Hãy làm nảy sinh một tình thương vị tha và cảm thông đối với tất cả mọi chúng sinh, rồi nghĩ rằng: “Mình mong sao không bị đau khổ. Nhưng những người khác cũng đang chịu khổ như mình, nhiều khi còn hơn thế. Giá mà họ cũng có thể thoát được những nỗi khổ ấy nhỉ!” Khi ấy chúng ta sẽ không còn bị ám ảnh bởi đau đớn và cảm thấy nó thuyên giảm. Đầy lòng vị tha, chúng ta sẽ không còn cay đắng tự dằn vặt: “Tại sao lại là mình cơ chứ?”.

Khi chỉ hoàn toàn bận tâm về mình, chúng ta sẽ dễ bị tổn thương và nhanh chóng trở thành con mồi cho sự hoảng hốt, khó chịu, bất lực hoặc lo âu. Nếu chúng ta có lòng vị tha mạnh mẽ và lòng tốt vô điều kiện trước khổ đau của người khác thì khi ấy, chúng ta sẽ dũng cảm chứ không chịu đựng, thương yêu chứ không trầm uất, cởi mở với tất cả những người xung quanh chứ không thiển cận hẹp hòi.

4. Quán chiếu chính bản thân của tâm thức

Hãy chỉ đơn giản ngắm ngía cái đau. Ngay cả lúc nó âm ỉ, chúng ta hãy tự hỏi nó màu gì, hình dạng ra sao, hoặc bất kỳ một tính chất bất biến nào của nó. Càng cố gắng khoanh vùng nó lại, chúng ta sẽ càng thấy đường nét của cơn đau mờ nhạt dần. Cuối cùng, ta sẽ nhận ra rằng, đằng sau cái đau, có ý thức hiện diện; chính ý thức là nguồn gốc của mọi cảm giác và mọi suy nghĩ. Hãy thư giãn tâm trí và cố gắng đặt cơn đau nghỉ ngơi trong ý thức trọn vẹn (chánh niệm), không có sự thêm thắt của tâm thức. Thái độ này sẽ giúp chúng ta không còn là nạn nhân thụ động nữa, mà dần dần, dám đương đầu và cải thiện sự tàn phá do đau đớn gây ra trong tâm thức chúng ta.

Chắc chắn là không dễ dàng, song kinh nghiệm chứng minh rằng có thể làm được. Chúng tôi quen biết nhiều thiền gia sử dụng tới phương pháp này khi căn bệnh của họ đã vào giai đoạn cuối cực kỳ đau đớn. Họ tỏ ra thanh thản một cách đáng kinh ngạc và ít bị chi phối bởi cơn đau. Francisco Varela, nhà nghiên cứu nổi tiếng của ngành khoa học nhận thức, đã thực hành thiền Phật giáo trong nhiều năm. Ông tâm sự với tôi, vài tuần trước khi mất vì căn bệnh ung thư đã di căn ra toàn thân, rằng ông có thể hầu như thường xuyên trụ được trong trạng thái tỉnh thức trọn vẹn. Khi ấy, đau đớn thể xác hình như xa xăm và không ngăn cản được ông giữ gìn trạng thái bình yên của nội tâm. Ông chỉ cần những liều thuốc giảm đau rất nhẹ và đã biết giữ gìn tâm trí minh mẫn và thanh thản quán chiếu cho tới hơi thở cuối cùng.

Matthieu Ricard

Nguyên tác: Nghệ thuật Thiền định

Lê Việt Liên dịch

Nguyễn Quang Chiến hiệu đính