CHIA SẺ

Sau khi ta, Tsogyel, đã ban phước cho các địa điểm năng lực lớn và cất dấu các bảo tạng của Đại Sư Liên Hoa Sanh để người đời sau tìm lại, ta trở Chimphu làm nữ đạo sĩ của Hoàng Đế. Ta ở lại đó một thời gian, làm việc hăng hái hơn nữa vì lợi ích chúng sinh. Ở Chùa Karchung Dorying ta truyền nhiều pháp tu tập giác ngộ và giải thoát rất tối thâm diệu và sâu xa cho bảy hành giả xứng đáng, trong đó có Vua Mutri Tsenpo, Hoàng Tử Murum Tsenpo và Ngangchung Pelgyi Gyelmo. Ta trình bày các mandala Tập Hội Lời Huyền Diệu Của Đại Sư, Tập Hội Tâm Yidam và Tập Hội Dzogchen Ati. Ta làm lễ truyền pháp cho các tân đệ tử và hướng dẫn họ giác ngộ và giải thoát.

Sau khi ta trình bày mandala Tập Hội Lời Huyền Diệu Của Đại Sư, chúng ta cùng tham thiền, và vào ngày thứ bảy, trước khi trời sáng, trong phần đầu của khóa lễ chúng ta cầu nguyện với bài tụng bảy câu sau đây:

“Ở Phương Bắc xứ Orgyen,

Sinh ra trong nhụy hoa sen,

Được bạn quyền năng tối diệu,

Ngài, Đại Sư Liên Hoa Sanh xuất hiện,

Vây quanh là đoàn Dãkinĩ hầu cận.

Để cho chúng con được đi theo vết chân ngài

Xin ngài hãy tới đây ban phước cho chúng con”

Tức khắc Đức Đại Sư và đoàn hầu cận xuất hiện từ hướng tây nam, với tiếng nhạc, mùi hương, nhũng tiếng hát trầm bổng, những vũ nữ xinh đẹp và một bài đạo ca nói về kinh nghiệm chứng đắc. Khi Đức Đại Sư tiến vào giữa đàn tràng, ta bảo nhà vua cho bày một cái ngai để ngài ngồi, nhưng nhà vua đã bất tỉnh vì bị chấn động bởi lòng tôn sùng mãnh liệt dành cho Đại Sư; thế là không có ngai để mời ngài an tọa.

Sau đó Đại Sư nói với nhà Vua: “Không bao lâu nữa người cháu man rợ của Hoàng Tử Thiêng Liêng sẽ xuất hiện, khi đó vương triều của Hoàng Đế sẽ mất ngai vàng của các tiên vương. Nhưng ngài sẽ không phải đầu thai một lần nữa vì có sức tín tâm lớn mạnh. Nên ngài sẽ đạt được cùng lúc lực cứu độ chúng sinh bằng các hóa thân vi diệu, thành tựu đạo quả và giải thoát.”

Hoàng Tử Mumm cho đặt nhiều ngai để Đại Sư cùng các vị hầu cận an tọa. Vua Mutri Tsenpo làm một năm đồ hình mandala bằng vàng và lục ngọc dâng lên. Đại Sư với lời thỉnh cầu như sau:

“Đức Orgyen Liên Hoa, Phật Hóa Thân,

Người cha độc nhất của toàn dân Tây Tạng,

Chúng tôi, những người bị đè nén bởi sức nặng của nghiệp xấu,

Và bị kéo xuống vũng lầy xao lãng,

Xin ngài từ bi đừng bao giờ bỏ rơi mà hay phù hộ chúng tôi.

Do từ tâm lớn ngài đến đây với chúng tôi hôm nay,

Hãy nói ngài sẽ ở lại đây mãi mãi,

Để lại quay bánh xe giáo pháp.’’

Đại Sư Liên Hoa Sanh đáp:

“Hãy nghe ta nói, hỡi vị vua công minh, Thần Vương.

Ruộng thành tín, đấng thiên phú đức hạnh,

Với sự gia hộ của Đại Sư nguyện ngài sẽ giác ngộ,

Do mở cửa bí mật của Tsogyel ngài sẽ tìm thấy giải thoát,

Biết tâm của mình như Mahamudra nguyện ngài đạt thành tựu,

Trong cõi không bao gồm Thân Khẩu Ý nguyện ngài đắc đạo.”

Đại Sư đặt bàn tay lên đầu nhà vua, tức khắc ngài đạt thành tựu giải thoát.

Hoàng Tử Murum Tsenpo phục lạy và nhiễu quánh Đại Sư rồi chồng chất một núi lễ vật trong đó có một con hươu bằng vàng, ba mươi chậu đồng lớn đựng đầy lục ngọc với viên lục ngọc lớn có tên gọi là “Khai Thiên Môn” và nhiều bảo vật khác. Hoàng Tử thỉnh cầu: “Con là một hoàng tử không xứng đáng, kiêu ngạo, lười biếng, xao lãng, hay làm điều tội lỗi, chiến tranh và dùng luật pháp hà khắc. Con chỉ gây những trò chơi xấu. Xin ngài chỉ dạy cho con những điều vi diệu, sâu xa, dễ hiểu, dễ hành, một giáo lý mang lại ơn phước lớn và mau đưa tới thành tựu chuyển hóa nghiệp xấu và khôi phục tâm trí đã hư hỏng của con. Cầu xin ngài cho con được như ý.”

Đại Sư trả lời:

“Sẽ được như vậy! Sẽ được như vậy! Hỡi Con Trai của Người Chinh Phục

Ý nguyện của con thanh cao, nghiệp của con trong sạch,

Với tín tâm, kiên trì, con vững vàng khi được thử thách.

Sau bảy kiếp nữa,

Con sẽ dứt luân hồi,

Nhưng để cứu độ người khác qua hóa thân vi diệu.

Tâm của con sẽ hợp nhất với Chư Phật ba đời,

Và sau một đại kiếp nữa,

Con sẽ thành Phật Tịnh Quang.”

Nói xong Đại Sư trình bày mandala của Yangdak, vị thần ban thành tựu nhanh cho hành giả, và ngài truyền cho Hoàng Tử một pháp đặc biệt gọi là Tri Kiến Tự Giải Thoát Về Đạo Thậm Thâm của Chư Thần Hiền Hòa Và Phẫn Nộ mau đưa tới giác ngộ và giải thoát Ngài bảo Hoàng Tử cất dấu giáo lý này trên đỉnh núi Dakpo Dar để làm lợi ích cho đời sau. Đại Sư cũng ban cho Hoàng Tử pháp đặc biệt để hợp nhất với Đạo Sư gọi là Chuỗi Hoa Sen Ngọc Đạo Sư và các giáo lý khác, và dạy phải cất dấu pháp này trong Núi Đá Ramoche.

Sau đó, Đại Sư khánh thành Chùa Karchung Dorying và ở lại đó một tuần trước khi sửa soạn đi Orgyen. Vào ngày thứ bảy, trước khi trời sáng và trước lúc Đại Sư ra đi, ta thỉnh cầu:

“Thưa Đại Sư, với từ tâm ngài làm khô vũng lầy cảm xúc,

Tức khắc giải thoát người tội lỗi,

Những người đã thấy, nghe, nghĩ và tiếp xúc với ngài, Liên Hoa sanh, Sứ Giả, của Chư Phật Nhiếp Phục,

Hiện tại và mãi mãi từ bi quán sát Xứ Tây Tạng,

Nay con đã hoàn thành công việc hóa độ,

Con xin ngài cho con được như nguyện,

Được ở bên ngài mãi mãi, không bao giờ xa cách giây phút nào.”

Đại Sư đáp:

“Nghe đây, Con Gái xứ Kharchen.

Quả cầu lửa thủy tinh được gió thổi bay,

Làm ra ngày, đêm và bốn mùa trong trật tự,

Cả mặt trời lẫn bầu trời đều không có quyền vận động. Khi lúa chín thì hạt lúa rơi ra,

Người nông dân không thể cản trở điều này,

Giờ đây Trí Huệ của con đã mở rộng,

Các chủng tử cảm xúc đã nằm yên, bất lực,

Sự bất tịnh của con đã được giải trừ,

Nên thân vô lượng của con không thể trụ lại, dù được phàm tâm bám giữ.

Con đã hành trì các pháp thiền quán tưởng, thành tựu và Dzogchen,

Nên con không thể ở lại, dù các đệ tử của con tưởng như vậy.

Nghiệp đã dứt, thực tại đã không còn, việc chuyển hóa đã xong,

Thân xác đã tàn, ngũ căn, ngũ trần đã hết,

Con đã kỳ diệu đạt niết bàn.

Sau khi trải qua năm mươi năm, vào ngày mùng tám tháng dậu,

Tsogyel sẽ nhập vào ánh sáng hoa sen.

Một đoàn các Dãkinĩ cùng các Bồ Tát sẽ đón tiếp con

Nhưng bây giờ con hãy dùng khả năng của mình phụng sự chúng sinh.”

Nói xong, Đại Sư biến mất.

Sau đó ta, Tsogyel đi tới Hang Phukmoche ở Kharchu xứ Lhodark là nơi ta khuyến khích Namkhai Nyingpo đạt kết quả trong pháp vận kinh mạch lực, trở thành bất tử. Vị học giả này cũng đắc thần thông và quyền năng tối thượng (đắc đạo). Sau công việc này ta tham thiền với sự hiểu biết về tiềm năng của pháp Dzogchen, làm xuất hiện linh ảnh thực tại tận diệt. Chúng sinh còn vướng trong luân hồi thấy ta có các hóa thân khác nhau xuất hiện để hộ trì họ. Đối với người đói ta xuất hiện như một núi thực phẩm, làm cho họ hạnh phúc; đối với người nghèo ta xuất hiện như đủ loại của cải làm cho họ hạnh phúc; đối với người không có đồ mặc ta xuất hiện như các loại y phục, làm cho họ hạnh phúc; đối với người không có con ta xuất hiện như con trai hay con gái, làm cho họ hạnh phúc; đối với người muốn có vợ ta xuất hiện như một người con gái đẹp, làm cho họ hạnh phúc; đối với người muốn có chồng ta xuất hiện như một người đàn ông đẹp trai, làm cho họ hạnh phúc; đối với người muốn có huyền thuật ta ban cho họ tám thần thông lớn, làm cho họ hạnh phúc; đối với người bệnh tật ta xuất hiện như thuốc chữa bệnh, làm cho họ hạnh phúc; đối với người phiền não ta xuất hiện như nhu cầu nội tâm của họ, làm cho họ hạnh phúc; đối với người bị luật pháp hà khắc áp chế ta mang lại hòa hợp với tình thân ái cho xứ của họ, làm cho họ hạnh phúc; đối với người sợ thú dữ và ma quỷ ta xuất hiện như các mối đe dọa thú và ma, làm cho họ hạnh phúc; người nào rơi xuống vực sâu sẽ được ta cứu, làm cho họ hạnh phúc; đối với người gặp nạn lửa ta xuất hiện như nước, và với những người gặp bất cứ tai họa thuộc ngũ hành ta xuất hiện như sự cứu nạn tùy trường hợp, làm cho họ hạnh phúc; đối với người mù ta xuất hiện như mắt, làm cho họ hạnh phúc; đối với người què ta xuất hiện như chân, làm cho họ hạnh phúc; đối với người câm ta xuất hiện như lưỡi, làm cho họ hạnh phúc; đối với người run vì sợ chết ta ban sự bất tử, làm cho họ hạnh phúc; ta đưa người chết đến con đường vãng sinh tịnh độ làm cho họ hạnh phúc; đối với người lang thang trong cõi bardo ta xuất hiện như một vị thần Yidam, làm cho họ hạnh phúc; những người đọa địa ngục nóng, ta làm cho mát, giúp cho họ hạnh phúc; những người đọa địa ngục lạnh ta làm cho ấm, giúp cho họ hạnh phúc; và ở bất cứ địa ngục nào ta cũng biến thành những phương tiện xoa dịu sự đau khổ của các tội nhân, làm cho họ hạnh phúc; đối với bọn la sát ta cải hóa họ, làm cho họ hạnh phúc; ta mang thực phẩm và nước uống cho bọn quỷ đói, làm cho họ hạnh phúc; ta giải thoát những người đầu thai làm súc sinh lang thang trong rừng khỏi sự u mê và nô dịch, làm cho họ hạnh phúc; ta giải thoát bọn a tu la khỏi sự tranh chấp và xung đột, làm cho họ hạnh phúc; ta giải thoát các vị thần sống trong các cõi trời khỏi sự sợ chết và tái sinh vào cõi thấp, làm cho họ hạnh phúc; ta cứu chúng sinh thoát khỏi bất cứ sự đau khổ nào, làm cho họ hạnh phúc. Tóm lại, ở đâu có tình cảm con người thì ở đó có sự sống hữu tình nên ở đó có ngũ uẩn, và do đó có cõi không; và vì tâm từ bi của ta mở lớn như cõi không nên nó thâm nhập tất cả loài người. Xuất hiện lần lượt với các hóa thân khác nhau, ta trở lại Phukmoche mười hai năm.

Lúc đó người phối ngẫu cũ của Guru Rinpoche, một Dãkinĩ Trí Huệ, Nữ Vương của các Thành Tựu Giả, Trí Giả Dungmen gyelmo, cũng được gọi là Người Phối Ngẫu Thiêng Liêng, Hoa Mandarava tới từ Ấn Độ. Từ bầu trời hiện xuống cùng với sáu đệ tử, bà chào ta. Mandarava ở lại với ta ba mươi chín ngày thế gian và hai chúng ta trao đổi và tu chỉnh giáo lý, thảo luận bất tận với nhau về Giáo Pháp. Đặc biệt là Mandarava hỏi ta về hai mươi bảy giáo lý bí mật mà Đức Liên Hoa Sanh đã không truyền dạy ở Ấn Độ và vì Mandarava là Dãkinĩ Trường Sinh, Chúa của Sự Sống, nên ta hỏi bà về bảy giáo lý bí mật của Pháp Thành Tựu Trường Sinh, chưa kể ba mươi ba giáo lý bí mật nữa về Hayagriva và các vị thần khác. Ta cất dấu tất cả các giáo lý này như những bảo tạng dành cho người đời sau. Sau đó ta dâng bài kệ sau đây cho Mandarava:

OM AH HUNG! Hỡi Dãkinĩ, ngài đã đắc thân kim cương bất tử

Thân của ngài nhảy múa trên trời như cầu vồng

Ngài có tài di chuyển vô ngại xuyên qua vật chất

Ngài đã huỷ diệt Tử Thần ma quỷ

Ngài đã nhiếp phục con quỷ Thể Xác

Ngài đã thoát ràng buộc của cảm xúc

Và ngài đã tiêu diệt con quỷ Thần Nhỏ,

Vậy ngài là Dãkinĩ Chủ Tể Sự sống.

Ngài đã đắc Thân Đại Lạc bằng mọi cam lộ tốt nhất

Trong ba cõi dưới Thượng Thiên.

Mandarava, Đại Ấn Cõi Không,

Mẹ của chúng sinh, tôi đành lễ ngài.

Đối với chúng sinh vướng trong nghiệp luân hồi,

Đạp bánh xe nước ảo giác,

Ngài đóng cánh cửa đi xuống cõi thấp,

Nguyện những người noi gương Ngài nay được thực hiện.

Nghiệp dứt, lạc thú thế gian không còn, mọi dấu vết vô minh đều được xóa bỏ,

Ba cõi và toàn cuộc luân hồi tận diệt, mọi ảo hình đều được thu lại,

Được phong kín bằng an lạc trong cõi đạt lạc,

Nguyện chúng ta hợp nhất với đại lạc của Kuntuzangpo

Sau đó ta cũng cầu nguyện nhiều điều và thỉnh cầu được truyền nhiều giáo lý chưa hề nghe nói trước đây ở Tây Tạng, Người Phối Ngẫu Thiêng Liêng, Nữ Vương của các Thành Tựu Giả, Mandarava trả lời như sau:

“Hỡi Dãkinĩ, ngài đã quán thông Mật Giáo,

Hỡi người biến hình, ngài đã tiêu tán thân bất tịnh trong cõi vô nhiễm,

Ngài đã uống cam lộ giáo lý của Liên Hoa Sanh, thu tập tinh túy,

Ngài là Đại Mẫu Trí Bát Nhã!

Ngài đã đi vào đường đạo trông thấy chân lý,

Ngài đã chối bỏ tám điều quan tâm của thế gian,

Ngài đã thực hành khổ tu hấp thụ tinh túy,

Làm cho vũ trụ vạn pháp và năng lực trở thành một.

Tôi đành lễ ngài, Tsogyel, cô gái vô nhiễm.

Qua pháp ẩn tu ngài đã giải thoát chúng sinh,

Chúng sinh tội lỗi, bị thổi trong gió nghiệp, vướng trong luân hồi vô tận!

Ngài đã thiết lập Phật Pháp,

Hủy diệt các tín đồ Đạo Bon tà giáo,

Nguyện tôi được hợp nhất với ngài, Chủ Tể Thần Thông.

Từ nay, thanh tịnh trần ngập cõi thanh tịnh,

Trong cõi ánh sáng hoa sen của ngài,

Ngài và tôi sẽ phóng chiếu các thân Phật Hạnh,

Như các thân ánh sáng thể hiện lòng từ bi của Đại Sư Liên Hoa Sanh,

Nguyện như vậy chúng ta sẽ làm cho ba cõi luân hồi trống rỗng.”

Nói xong, Mandarava biến vào bầu trời.

Kế đó ta, Tsogyel với Be Yeshe Nyingpo, Ma Rinchen Chok, Odren Pelgyi Zhonnu, Langlab Gyelwa Jangchub Dorje, Darcha Dorje Pawo, Surya Tepa người Trung Tây Tạng, cô gái người Bhutan Tashi Chidren, người Nepal Kalasiddhi, Jangchub Drolma người xứ Khotan, Dorje Tsomo xứ Shelka, Zhonnu Drolma xứ Kharchen, mười một đệ tử ruột này cùng với bảy mươi chín đệ tử sơ cơ đi tới Thung Lũng Zapu ở Shang. Sau khi đã ở đó mười năm, hướng dẫn các đệ tử, ta nhập đại định tiêu trừ tất cả các pháp hữu tình, nhưng sáu đệ tử có nhân duyên lớn với ta được dẫn đầu bởi Be Yeshe Nyingpo, đệ tử trung thành Khon, và mấy người khác, cầu xin ta đừng nhập Niết Bàn mà hãy ở lại để tiếp tục quay bánh xe giáo pháp:

“Đại Mẫu Siêu Linh, người có các tướng hảo của pháp thân,

Khi ánh sáng mặt trời và mặt trăng của ngài đã nhập vào cõi không,

Thì loài hai chân phàm tục chúng con biết trông cậy vào ai?

Xin hãy ở lại vì ngài vẫn còn mandala trí huệ viên mãn để trình bày cho chúng con.

Đấng Nhiếp Phục Siêu Linh có báo thân là đám mây đem mưa ngọt tới,

Khi giáo lý bí mật cam lộ của ngài nhập vào cõi không,

Bọn mầm non chúng con nơi thế gian này biết trông cậy vào ai?

Xin hãy ở lại tưới thêm cam lộ giáo lý của ngài cho chúng con.

Tsogyel hóa thân, nơi an trú và tấm gương của chúng con

Khi các tướng hảo Phật Quả của ngài nhập vào cõi không,

Chúng con, những kẻ mù không người hướng dẫn, biết trông cậy vào ai?

Xin ngài ban cho chúng con giác ngộ và giải thoát.

Hãy rủ lòng từ bi thương chúng con, Đức Tsogyel cao cả!”

Thấy họ cứ thành tâm khẩn cầu, ta trả lời: “Hãy sửa soạn một lễ cúng lớn, các con trai, con gái của ta. Sau khi trình bày các mandala của nhiều nghi quỹ sâu xa nhất, ta sẽ truyền dạy các người. Sau ngày mùng tám tháng này, sẽ chỉ có cái tên Tsogyel là còn ở lại Tây Tạng mà thôi.”

Tuy thất vọng và có phần giao động, các đệ tử cũng sửa soạn một lễ cúng lớn. Các anh chị em đồng tu này, mặt mày ủ rũ ngồi quanh quẩn bên ta vừa nhìn vừa khóc. Ta lại nói với họ như sau:

“Hãy nghe cho kỹ, những người trong đoàn thể của ta,

Chú ý nghe những lời này.

Không việc gì phải u buồn, mà hãy phấn khởi!

Vì cuộc đời là do nhân duyên nên nó vô thường,

Vì thế gian là ảo ảnh nên nó không có thực chất,

Vì đạo là mơ hồ nên nó không có giá trị,

Vì luân hồi là Không nên nó không có thật,

Vì tâm là những ý nghĩ đối nghịch nên nó không có căn bản,

Ta không thấy cái gì là có thật cả.

Các anh chị em trung thành tập họp ở đây,

Hãy thành tâm cầu nguyện ta, Mẹ của các người,

Ta sẽ ban cho các người đại lạc của cõi Không.

Không có đoàn tụ hay phân ly,

Những người có nhân duyên với ta tự nhiên sẽ được ta hướng dẫn,

Những người khác sẽ được các hóa thân từ bi vô phân biệt của ta cứu độ.

Mẹ của các người không lo nghĩ tới tử vong hay biến dịch, Vậy không có lý do gì để buồn cả, hỡi các anh chị em. Ta đã làm xong công việc hóa độ trên thế gian này. Theo lời tiên tri của Đức Orgyen tôn quý,

Hai trăm năm kiếp này được dành cho việc giáo hóa. Không chỉ hai trăm mà nhiều hơn đã trôi qua,

Và ta đã hộ trì Tây Tạng rất lâu, ở tuổi mười ba ta là vợ của Hoàng Đế,

Đến tuổi mười sáu ta được Đại Sư ban rải từ bi,

Năm hai mươi ta được truyền pháp trọn vẹn và thực hành khổ tu,

Đến ba mươi ta đạt thành tựu và phụng sự chúng sinh, năm bốn mươi tuổi ta hợp nhất với tâm của Đạo Sư, năm mươi tuổi ta nhiếp phục ma quỷ, bảo hộ Giáo Pháp,

Sáu mươi tuổi ta truyền bá kinh sách và mở rộng tăng đoàn,

Bảy mươi tuổi ta giác ngộ chân lý,

Khi ta được tám mươi tuổi Đại Sư của ta ra đi về hướng Tây Nam,

Chín mươi tuổi ta nhận ra bần lai diên mục,

Năm một trăm tuổi trí huệ của ta đã viên mãn,

Một trăm hai mươi tuổi ta là đạo sĩ của Hoàng Đế,

Một trăm ba mươi tuổi ta đi khắp Tây Tạng,

Một trăm năm mươi tuổi ta cất dấu các bảo tạng, làm việc vì người khác,

Năm ta một trăm sáu mươi tuổi Vua Mutri Tsenpo qua đời,

Ở tuổi một trăm bảy mươi ta giải thoát các đệ tử còn lại của ta,

Một trăm tám mươi tuổi ta phân thân hóa hiện ở Lhodrak.

Một trăm chín mươi ta gặp chị của ta, Nữ Vương của các Thành Tựu Giả.

Nhận giáo lý tối thượng, đạt pháp trường sinh,

Vượt qua sự phân biệt sống và chết.

Nay hai trăm mười một năm đã trôi qua,

Chắc chắn đó là thời gian đủ để hộ trì Tây Tạng

Chắc chắn thần và người đều vui lòng,

Các vị đã chia sẻ với ta những vui buồn.

Khi ta đi rồi, sẽ có vẻ chia ly,

Nhưng đừng buồn, hỡi các bạn của ta,

Hãy thành tâm cầu nguyện.

Hãy thâm nhập pháp đại thành tựu Dzogchen,

Vì không có pháp nào khác để vượt khổ luân hồi.

Lời dạy trong Dzogchen là tâm huyết của Đại Sư Liên Hoa Sanh.

Ngài đã dạy ta,

Nay ta phải truyền lại cho các người.

Hãy thực hành cho đến khi thành tựu.

Các người có thể truyền cho những người xứng đáng,

Nhưng đừng truyền cho những ai thiếu khả năng tiếp nhận.

Hãy thề không truyền cho những người phạm giới nguyện,

Cũng như giữ kín đối với những người cứng đầu.”

Ta bảo họ thề giữ bí mật rồi trình bày mandata của pháp Dzogchen Ati cho mười một đệ tử thân cận, ban cho họ một trăm giáo lý bí mật như trái tim của ta, và họ tức khắc đạt giải thoát. (Đây là lần truyền dạy cuối cùng giáo lý khẩu truyền bí mật của Đức Bà Tsogyel).

Ta an trú trong hang trên cùng ở Pama Gang. Vào ngày mùng ba, tháng dậu, năm ta được hai trăm mười một tuổi, ta nói với các đệ tử rằng tất cả chúng ta sẽ đi tới Đỉnh Zapu để chứng kiến một cảnh tượng sẽ diễn ra ở đó vào ngày mùng tám cùng tháng, và chúng ta sẽ ở lại đó trên Núi Màu Đồng. Cùng với mười một đệ tử ruột và khoảng năm mươi đệ tử sơ cơ ta khởi hành tới Đỉnh Zapu. Vào ngày mùng bảy, trên sườn núi, chúng ta tìm thấy và trú đêm hôm đó trong một cái hang có hình dạng giống như “ấn namaste”. Ta truyền cho các đệ tử hai mươi chín giáo lý ngắn, và sau khi ăn một bữa cỗ cúng lớn để tạo sự hợp nhất với Đại Sư, các đệ tử tu tập ở trước mặt ta. Ta nói với họ rằng tính chất của con người là sự chết. Tashi Chidren dâng lên ta một cái đĩa bằng vàng rồi thỉnh cầu:

“Thưa Đức Mẹ rộng lượng, Đức Bà Tsogyel,

Mẹ độc nhất của chúng sinh ba cõi,

Khi ngài không hộ trì các đệ tử của ngài nữa,

Dù những người có khả năng dùng tay nuôi miệng vẫn sống được,

Nhưng lũ đạo tâm chúng con vô phương đối phó với cuộc đời.

Những người có huệ nhãn có thể đi theo đường đạo,

Nhưng bọn đệ tử mắt như bong bóng nước của ngài sẽ sa xuống hố.

Hỡi vị đại diện tài năng của Đức Phật;

Khi ngài không bảo hộ những người nghe pháp của ngài nữa

Thì dù các la hán cao cả vẫn có thể tự độ,

Nhưng ai sẽ trông coi các tu sĩ nhỏ lãng tai?

Ôi, Dãkinĩ có giọng nói Phạm Thiên Khi ngài không hộ trì đoàn thể này nữa,

Dù các dịch giả, các học giả, các cao tăng vẫn sống vững vàng,

Nhưng ai sẽ hướng dẫn quần chúng?

Than ôi! Đức Bà thành tựu,

Xin hãy vẫn từ bi quan sát chúng con.

Nếu ngài cần phải từ biệt đoàn thề anh chị em này.

Xin ngài, ban cho chúng con những lời cam lộ”

Tashi Chidren phục lạy nhiều lần rồi ngồi xuống. Ta trả lời:

“Hãy nghe đây, Con Gái Xứ Bhutan trung thành.

Ta, Đức Bà Tsogyel,

Hành đạo không ngừng vì lợi ích chúng sinh,

Đã hộ trì toàn Tây Tạng bằng từ lực của ta,

Suốt hai trăm năm qua.

Nay việc hóa độ của ta đã mãn,

Không còn gì để ở lại, ta không thể trì hoãn việc ra đi,

Cũng như chúng sinh đều phải lìa đời.

Nhưng ta sẽ để lại vài lời di huấn.

Xin hãy nghe ta nói, các anh chị em tụ tập ở đây,

Thế gian này có vô số người đen đầu,

Nhưng những người biết quý trọng giáo pháp thì không có bao nhiêu.

Những người thực hành trong đoàn thể này lại còn ít hơn nữa,

Các thành tựu giả thì hiếm như sao trên bầu trời buổi sáng,

Vào thời buổi này không có ai đạt Phật Quả.

Vậy hãy ghi nhớ câu này: “Sống theo giáo pháp!”

Dù có lời rằng có tám mươi tư ngàn pháp môn,

Vô số con đường dẫn tới một mục tiêu,

Nhưng có thể thu tóm lại chín thừa,

Và chín thừa này rút lại thành pháp thành tựu Ati ba phần và một kết quả.

Pháp Ati gồm giáo lý vô thượng sau đây,

Giáo lý về Thị Kiến, Thiền Định, Hành Động và Đạo Quả,

Thị Kiến là thoát khỏi sự tạo tác ý niệm (vọng tưởng), Thiên Định là chứng nghiệm thanh tịnh vô sinh,

Hành Động có tính chất an nhiên tự tại,

Và Đạo Quả là sự hiển lộ tự nhiên ba thân Phật.

Đó là tinh túy của giáo lý này.

Khi hành vi của các người hợp với Giới Luật.

Thì sự sân hận trong người khác tự nhiên tiêu tan.

Khi các người tu tập theo Kinh Điển,

Thì sẽ có ảnh hưởng tốt làm đức hạnh tự nhiên tăng trưởng.

Khi linh thị hợp với Luận Thư,

Nghi ngờ cũng như kiêu mạn sẽ tự nhiên tiêu diệt.

Kinh, Luật, Luận là nền tảng của giáo lý,

Không có cách nào khác để mang ngọn đuốc Giáo Pháp.

Hành các pháp thanh lọc theo các đề mục của nghi quỹ hành động “kriya”,

Sẽ tiêu trừ chủng tử các thiên hướng xấu.

Tu luyện theo các đề mục của pháp tối thượng “upayoga”,

Tự nhiên sẽ trở nên quen thuộc với giáo pháp.

Quán tưởng theo các đề mục của nghi quỹ du già “yoga tantra”,

Tự nhiên sẽ mang lại ơn phước từ bi.

Tụng niệm và thành tựu theo “mahayoga”,

Tự nhiên sẽ phát sinh Kiến, Thiền và Hành.

Thực hành hướng dẫn các luồng kinh mạch trong pháp “anuyoga”,

Tự nhiên sẽ mang lại năng lực và thần thông.

Thanh lọc đề đạt “tính không” như chính Ati,

Sẽ đắc Phật Quả tức khắc.

Không cần phải nói gì thêm,

Tất cả những người nào muốn làm như ta,

Hãy thực hành những pháp môn được kể trong sự tích này,

Rồi mọi người sẽ thực hiện được cứu cánh tối thượng.”

Nghe ta nói xong, cô gái Kalasiddhi người Nepal phục lạy, nhiễu quanh ta nhiều lần rồi hỏi:

“Thưa Mẹ, khi ngài nhập vào cõi không,

Các hành giả “zap lam” (con đường sâu xa) mật giáo Tây Tạng chúng con sẽ phải làm gì?

Ai sẽ đuổi ma chướng, thúc đẩy chúng con hành thiện?

Xin ngài vẫn từ bi hộ trì Tây Tạng!”

Ta trả lời:

“Hãy nghe đây Dãkinĩ người con gái cao quý,

Cô gái mật giáo đạt thành tựu,

Người biểu lộ con đường đức hạnh,

Với ý nguyện vô kỷ của thân tốt đẹp.

Đoàn thể này cũng như những hành giả “zap lam” tương lai,

Trước hết phải tìm một vị Lama có khả năng đặc biệt,

Với vị Lama có đủ những ấn chứng này,

Hãy thỉnh cầu được thọ giới và truyền pháp,

Rồi luyện các luồng tinh lực cho tới khi có thể tự chế,

Và sau khi nhận ba lễ điểm đạo cao cấp, hãy tu luyện về ái dục,

Để hoàn thiện phẩm chất của bốn cấp hoan lạc,

Trong sáu tháng hay cho tới khi các ẩn chứng thành tựu xuất hiện trong thân thể.

Hợp nhất các tinh lực âm và dương,

Phát triển phương pháp hòa nhập các tinh lực cao và thấp,

Âm phụ dương và dương hòa âm,

Các nguyên tắc của âm và dương vốn được thực hành riêng rẽ.

Nâng cao và tăng cường việc tu luyện, mở rộng tâm hoan lạc,

Nhưng nếu đại lạc và Tính Không, không hợp nhất,

Thì đó là do các người đi lạc con đường Mật Giáo,

Vậy hiểu sự hợp nhất cốt yếu của đại lạc và Tính Không.

Gìn giữ giới nguyện Samaya về Guru và Dãkinĩ như gìn giữ hai con mắt của mình,

Với các pháp thiện xảo hưởng năm chất thiêng,

Tập cho hoàn hảo cách bảo tồn tinh chất của mình,

Hãy cảnh giác với các lực lượng chướng ngại và đối dịch,

Nếu phạm giới nguyện hãy ra sức khôi phục.

Về thân: đừng để nó rơi trở lại các thói quen xấu,

Nếu không con sẽ trở thành những người nam nữ tầm thường,

Với niềm tự tin của vị thần, hãy thiền quán với sức mạnh,

Coi cái luân xa của mình là vị thần chính và các vị thần phụ.

Về khẩu: tập trung vào thần chú và các luồng tinh lực,

Không có sự chế ngự tinh lực thì hoạt động tính dục của các người chỉ là hành dâm,

Hãy tập đúng cách việc “rút lên” và “hòa trộn”,

Và quán tưởng mình được đóng kín lại bằng những cái đinh.

Về ý: Hãy coi phàm trí chính là tinh chất,

Nếu thực sự để cho tình chất thất thoát,

Thì khác nào phạm tội giết một vị Phật,

Hãy đạt được sự tự chế bằng bất cứ giá nào.

Nhất tâm hòa nhập trong kinh nghiệm ái dục,

Nếu không, các bí mật không có ý nghĩa gì cả,

Ái dục như đại lạc là quả của sự thành tựu.

Hãy giữ thường trực kinh nghiệm thanh tịnh vô sinh,

Giữ giới nguyện Samaya như giữ thân thể và sự sống của mình,

Nếu vi phạm sẽ không có quyền lực nào khôi phục được.

Phần trên là lời hướng dẫn về thiền tập.

Các người đã nhập môn mật giáo,

Vậy hãy chôn vùi tham muốn và kiêu ngạo xuống hố,

Trút giả dối và hãnh diện xuống sông,

Đốt dâm dục và ham mê trong lửa,

Liệng sân hận và ngu si theo gió,

Hòa tan vô liêm sỉ và lừa dối trong không khí.

Giữ việc thực hành tính dục bí mật của mình không bị người khác nhòm ngó,

Đừng buông thả với bộ phận tính dục của các người, buộc chặt chúng lại,

Đừng khoe các ấn chứng của mình,

Dựa vào vị thần Yidam như ba căn bản bất phân (Guru, Deva, Dãkinĩ, tức ba thân Phật),

Thực hành đều đặn các lễ cúng “torma” và các cổ cứng,

Bảo tồn hạt giống từ bi vì lợi ích người khác,

Đừng làm gián đoạn dòng ơn phước không sắc tướng.

Phần trên là hướng dẫn tổng quát về hành vi.

Hãy hiểu biết và ghi nhớ những điều trên, hỡi Thành Tựu Giả,

Con và ta là một

Và qua các hóa thân chúng ta sẽ hướng dẫn người đời sau.”

Bà Yeshe Nyingpo thỉnh cầu:

“Đức Yeshe Tsogyel!

Xin ngài ban giáo lý khẩu truyền,

Cho con và những người như con.

Với những đợt sóng ơn phước từ bi của ngài,

Đừng bao giờ bỏ rơi chúng con, luôn luôn hộ trì chúng con.’’

Ta bèn đáp:

“Hãy nghe đây, Yeshe Nyingpo.

Hãy xin Đức Đại Sư ban ơn phước,

Hãy xin Bốn Dãkinĩ ban thần thông của họ,

Rồi phô diễn quyền năng của mình khi có dịp,

Đó là lời hướng dẫn về thiền trong hành động.

Hãy nghe ta nói… Yeshe Nyingpo!

Qua Luật Tạng, giữ cho tốt hình ảnh dòng của mình,

Người khác sẽ nhìn vào và noi gương con,

Hãy thực hành thiền quán Mật Giáo,

Rồi con sẽ mau thành tựu.

Kiên trì tu tập theo tinh yếu của Kinh Điển,

Để truyền thống kinh điển được vững mạnh

Tinh tấn tu luyện việc cầu khẩn và thành tựu vị thần Yidam,

Con sẽ mau đạt được quyền năng nào con muốn.

Dẹp bỏ mọi ý tưởng tự cao bằng cách đọc Luận Tạng,

Rồi con sẽ không còn lưỡng lự và nghi ngờ.

Nỗ lực thiền quán về kinh mạch, tinh lực và tinh chất,

Thì các ấn chứng của con sẽ mau hoàn hảo.

Tự thanh lọc theo các pháp của nghi quỹ hành động “kriya”,

Các thói quen xấu sẽ mau tiêu tan.

Thâm nhập sự thật về Thị Kiến, Thiền Định và Hành Động,

Thì con sẽ đi tới giác ngộ vững chắc.

Thiền quán về đạo quả, sự vô vi của Dzogchen,

Rồi thực tại sẽ tiêu diệt, vọng tưởng sẽ chấm dứt.

Hãy cầu nguyện vô phân biệt,

Rồi lợi ích vô lượng sẽ gia tăng cho chúng sinh.”

Tới đây Ma Rinchen Chok đặt câu hỏi:

“Lama, Đức Bà Tsogyei,

Khi ngài đi tới Xứ Orgyen rồi,

Chúng con trong đoàn thể này sẽ phải làm sao?

Chúng con phải cầu nguyện ra sao?

Xin cho chúng con biết phải làm thế nào để được ở bên ngài.”

Anh ta khóc. Ta trả lời:

“Hãy nghe đây, hành giả,

Con đã lão luyện về Mật Giáo

Mà còn quan tâm tới người khác, thật đáng khen,

Ta, một người đàn bà, Yeshe Tsogyel,

Đã được Đại Sư từ bi ban ơn phước,

Nay ta đã thành tựu đạo quả,

Ngày mai ta sẽ đi tới Xứ Orgyen.

Hãy cầu nguyện, rồi con sẽ được ban phước.

Hỡi các anh chị em đang tụ hội nơi đây

Hãy tập trung vào giáo lý vì quyền lợi cao nhất của mình,

Và thân tâm bảo vệ quyền lợi của người khác.

Tự giải thoát bằng Thị Kiến, Thiền Định và Hành Động,

Đặt lời cầu nguyện của các người lên âm thanh của Lời Phật,

Rồi phát nó ra với niềm tin và lòng thành sâu xa.

Thiền quán về vị Lama như sự tỏa sáng cửa Tri Kiến,

Và khi kinh nghiệm về cõi không bao la xuất hiện,

Khi phóng và thu ánh sáng là một,

Hãy trụ trong trạng thái đó.

Nếu các người biết ta là Dãkinĩ Nữ Vương của Hồ Trí Huệ,

Nguyên lý của toàn thể luân hồi và niết bàn,

Thì phải biết là ta sống trong tâm của chúng sinh,

Ta tự phóng chiếu như ngũ uẩn của thân tâm, và lục trần,

Sau đó ta hóa hiện thành mười hai nhân duyên.

Sự thật ta và các người là một bất khả phân,

Nhưng nếu không nhận ra ta, các người coi ta như một thực thể phân cách với mình,

Còn nếu các người rốt cuộc nhận ra ta, thì tâm nguyên thủy xuất hiện ở bên trong các người

Đó là Đại Trí Huệ thấm nhập tất cả các cõi.

Đại lạc trong thanh tịnh vô sinh được ngăn lại như một hồ nước,

Những con cá mắt vàng siêu thức sẽ tăng thêm nhiều.

Hãy duy trì kinh nghiệm thị kiến và đại lạc đó,

Rồi trên đôi cánh của thiền quán hoàn hảo các người sẽ vượt qua bờ bên kia,

Chạy nhảy trên cánh đồng các linh ảnh,

Bay vào trong bầu trời và biến mất.

Trong cõi không bao la của Trí Huệ,

Tinh chất đại lạc dày đặc như một hồ nước,

Thân thanh tịnh cùng tinh chất sáng bóng và rung động,

Các chủng tự và các vòng ánh sáng rạng ngời cùng lung linh.

Thị kiến về thực tại biểu lộ sẽ mở rộng, kinh nghiệm thị kiến sâu đậm sẽ gia tăng,

Các người chiếm được lâu đài Tri Kiến siêu diệu

Và thực tại không còn nữa lúc các người biến hóa vào cõi nguyên thủy

Đó là cách để các người không phân ly với ta.”

Odren Zhonnu Pel cũng hỏi ta:

“Thưa Đức Bà Yeshe Tsogyel!

Khi ngài đi tới Xứ Orgyen,

Bọn tầm thường bất trị chúng con phải làm sao

Để thực hành Thị Kiến, Thiên Định và Hành Động?

Xin ngài chỉ dạy cho con một chút.”

Ta đáp ứng lời thỉnh nguyện này như sau:

“Hãy nghe đây, Zhonnu Pel trung thành.

Chim non Dãkinĩ trong tổ ở khe đá,

Không biết việc bay lượn là dễ dàng như thế nào,

Cho đến khi nó quán thông sáu thừa của Giáo Pháp.

Khi đầy đủ khả năng, nó vỗ cánh với sức mạnh tiềm tàng,

Đập lên cổ làn gió lạnh như cắt,

Bay tới nơi nào nó muốn tới.

Ta, đứa con gái Tsogyel này cũng vậy,

Dù mong ước Phật Quả, ta vẫn phải đợi,

Cho tới khi khả năng thiền tập của mình hoàn hảo.

Làm cho các pháp thiền quán được thành tựu và pháp Dzogchen được hoàn hảo (mahayoga, anuyoga, và atiyoga),

Xác thân này tan trong ánh sáng,

Và giờ đây trước khi đi gặp Orgyen Guru,

Ta có vài lời di huấn cho các người.

“Thị Kiến” chỉ là một tính chất của đời sống thiền,

Khi thâm nhập thực tại, kinh nghiệm tính chất của nó,

Các người không thấy có Chân Không, vì còn có Tri Kiến và sự tỏa sáng,

Dù không có gì là thường tồn vì tất cả chính là không.

Tri kiến cốt yếu này được gọi là “Thị Kiến”

Thị Kiến có những cách thức gì?

Khi các người thực hành phóng và thu ánh sáng, thì đó là từ bi,

Khi thực hành pháp thành tựu, thì đó là “mahamudra”, đại ấn.

Là tinh túy không thường tồn cũng không gián đoạn.

Xoay mắt nhìn vào trong thực tại của mình,

Sẽ thấy chính mình, nhưng không thấy gì cả,

Nhận thức có tính chất thị giác đó,

Chính là cái được gọi là: “Thị Kiến”

“Thiền Định” là nền tảng của đời sống thiền.

Khi thâm nhập thực tại, kinh nghiệm tính chất của nó,

Muốn nhìn thấy Thị Kiến cốt yếu,

Tập trung sự chú tâm không lay chuyển thoát mọi giới hạn,

Như vậy gọi là thiền định.

Thiền định gồm những cách thức nào?

Dù con thực hành thiền quán hay thiền định,

Kinh nghiệm cao nhất cho con thấy thực tại bất biến,

Con có thể hành bất cứ cách thiền định nào trong vô số cách.

Thật vậy, phương pháp quán tưởng hay thành tựu,

Với điều kiện không nản chí, không hôn trầm, không mờ mịt,

Trong yên lặng không xao lãng,

Nếu con chú tâm vào chân như, thì đó là thực hành “Thiền Định”.

“Hành Động” là cách sinh hoạt trong đời sống thiền.

Khi thấm nhập thực tại, kinh nghiệm tính chất của nó,

Có Thị Kiến thực sự trong sáng và Thiền Định là thói quen kiên cố,

Trong trạng thái an nhiên tự tại.

Con sẽ thấy mình làm những hoạt động khác nhau,

Hành động gồm những cách thức nào?

Bất cứ hành thức hoạt động nào của con,

Có nền tảng là thanh tịnh nguyên thủy sẽ không trái ngược với kinh nghiệm thiền,

Loại kinh nghiệm thiền sâu đậm và cao thượng.

Thật vậy, bốn động tác: làm việc, ngủ, đi, đứng

Ăn, ngồi, trong thực hiện tất cả những hoạt động này,

Là phẩm tính của “Hành Động’’,

Vì Hành Động là chức năng gắn liền với thiền tập,

Dù là pháp tu tập hay pháp thành tựu hay Dzogchen, hay pháp thiền nào khác,

Không còn gì khác để nói.

Ta sắp đi Ngayab Ling,

Nhưng ta để lại Tây Tạng vô số giáo lý.

Tất cả những ai có tín tầm phải cầu nguyện!”

Tới lượt Dorje Tso người xứ Shelkar thỉnh cầu:

“Thưa Người Mẹ của toàn xứ Tây Tạng này,

Là bà chúa giúp kẻ này nương tựa,

Vì không có ai thay thế ngài,

Xin đừng bỏ con, đừng rút lại lòng từ bi.

Xin mang con theo vào trong ánh sáng hoa sen.

Nhưng nếu con vì nặng nghiệp,

Không thể đi theo ngài,

Thì xin ngài dạy cho con nhiều điều và nhiều giáo lý bí mật.”

Dorje Tso khóc và bất tỉnh vì xúc động. Khi cô ta tỉnh lại, ta nói với cô ta:

“Hãy nghe đây, Con Gái Xứ Shelkar trung thành,

Dãkinĩ Trí Huệ, Dorje Tso Thân của con là thân máu thịt,

Thân thấp kém, nô lệ cho vật chất,

Hãy tập chế ngự tinh lực để trở thành Thiên Nữ.

Khi đã điều phục được các luông tình lực và tâm trí,

Con sẽ trở thành gì nếu không phải là một thành tựu giả?

Phàm tâm buông lung của con bị năm độc tham, sân, si, kiêu, và ganh tị chiếm giữ,

Tạo ra một con người thô kệch,

Một chuỗi dai dẳng những ở tưởng nông cạn tầm thường.

Nếu muốn đắc Phật Quả, con hãy thanh lọc tâm trí,

Đặt mình trong “mahamudra”, đại ấn.

Khi đã tự tại trong Tính Không và Trí Huệ,

Con sẽ không là gì khác hơn một vị Phật.

Cái thân xác giả tạo này,

Chứa tất cả những điều tốt lành cũng như xấu xa

Nếu con muốn đắc thân cầu vồng, hãy làm tiêu tan thể xác,

Nhập trong đại định của pháp Dzogchen Ati.

Khi đạt tới chỗ thực tại tiêu diệt sắc thân,

Thì chỉ còn lại sự tự tại đầy tiềm năng.

Không có cách nào khác đề nhảy múa trên bầu trời.

Trong khí con thanh lọc phàm thân,

Có một cách bí mật để nhập vào ánh sáng hoa sen.

Vậy hãy nghe ta chỉ dạy.

Hãy cầu nguyện Đạo Sư của con,

Không bao giờ được nghĩ tới việc ngang hàng với ngài,

Cầu nguyện ngài với hình ảnh trong sáng, thành tâm, tôn kính và tin tưởng,

Xin ngài ban cho bốn lễ gia trì lực,

Nó sẽ không phân ly với ngài,

Quán tưởng ngài là ánh sáng chiếu ra từ giữa tim con,

Hợp nhất thân, khẩu, ý của con với thân, khẩu, ý của ngài,

Trụ trong thiền định “mahamudra”,

Rồi trên đường tu đạo, hãy giữ cho nhận thức của mình sắc sảo bằng minh sát quán.

Để có cảm hứng thiền định, hãy trưởng dưỡng an lạc chân không,

Tiếp tục trên đường đạo với việc xa lìa các đối tượng ái dục.

Hãy tin tưởng thực hành Dzogchen.

Rồi sẽ tiến tới chỗ viên mãn pháp Ati.

Sau này, trong mười một kiếp liền,

Con sẽ biểu lộ phương tiện thiện xảo trong việc hướng dẫn người Tây Tạng,

Và rồi con sẽ đi vào ánh sáng hoa sen.

Khi con được gọi là Dorje Dechen Pema Tso,

Con sẽ phóng ra một hóa thân,

Cùng với Gelong Namkhai Nyingpo,

Hợp nhất thành Phương Tiện và Trí Huệ.

Chỉ dạy cho hàng tỷ chúng sinh cõi khác

Những sinh linh dữ dội ở ngoại biên của thế gian

Hoạt động vô vị kỷ của con sẽ không sao kể hết

Namkhai Nyingpo sẽ có tên là “Ching”,

(Được gọi là Chejing Mirgon),

Và con sẽ là người phối ngẫu thiêng liêng của anh ta,

Sẽ sống một trăm ba mươi ngàn năm thế gian.

Sau đó, trong một vầng ánh sáng hoa sen,

Con sẽ trở thành bất khả phân với Đại Sư và Chủ của con.”

Sau khi nói trước tương lai của Dorje Tso như vậy, ta còn chỉ dạy thêm nhiều điều nữa. Lasum Gyehva Jangchub cũng phục lạy và nhiễu quanh ta nhiều lần, dâng lên một cái đĩa đựng bảy viên lục ngọc, trong đó quan trọng nhất là viên ngọc được dùng làm bùa hộ mệnh có tên là “Một Ngàn Ánh Sáng Chói”, rồi thỉnh cầu:

“Có trí nhớ hoàn hảo, Người Giữ Lời Bí Mật của Liên Hoa Sanh,

Mẹ của Đại Trí Hoàn Hảo, Tiếng Nói Đại Lạc,

Mặt trời duy nhất của xứ Tây Tạng u ám này, Đức Bà Tsogyel,

Nay nếu thực sự ngài phải ra đi về hướng Tây Nam,

Xin hãy ban cho con vài lời ngắn gọn làm những đợt sóng an lạc,

Những giáo lý sâu xa dạy một pháp môn tốt và nhanh,

Những lời dạy cách đắc Phật Quả ngay trong kiếp này.

Và xin cho biết con phải sống bao nhiêu kiếp nữa,

Khi nào con sẽ được gặp lại ngài, Thiên Nữ Dãkinĩ.

Xin ngài tiếp tục ban rải từ bi cho con!”

Đáp lời thỉnh cầu thứ nhất của Gyelwa Jangchub, ta dạy pháp “Giọt Tim của Thiên Nữ Hóa Thân”, gồm ba phần là bên ngoài, bên trong và bí mật. Phần bên ngoài phù hợp với các kinh điển và có mười đề mục. Phần bên trong phù hợp với các mật điển với mười một đề mục. Phần bí mật là những lời dạy bí truyền, gồm mười ba giáo lý siêu đẳng. Sau khi ta dạy xong, Gyelwa Jangchub và các anh chị em, tất cả bảy người, đạt an nhiên tự tại tối hậu trong thanh quang, không để lại thể xác hữu tử, đều được giải thoát. Ta lại có lời khuyên và tiên tri dành cho Gyelwa Jangchub như sau:

“Hãy chú ý nghe, Geylwa Jangchub,

Hãy nghe ta cho kỹ, Người Bảo Hộ Tâm Đạo Đức.

Hỡi Bồ Tát Phương Tiện Thiện xảo, Ayra Sale,

Khi người được gọi là Atsara Sale,

Người và ta hợp nhất như Phương Tiện và Trí Huệ,

Và những phần hay nhất của nhiều nghi quỹ sâu xa được phối hợp.

Vì vậy người được ban phước, và sẽ đạt giải thoát trong kiếp này.

Nhưng có những khi người quá thân mật với ta,

Và có khi nghi ngờ, và ngấm ngầm chê cười ta.

Nên trong tất cả các kiếp sau này,

Dù người lão thông Mật Giáo

E rằng chắc chắn người sẽ gặp chướng ngại là những ảnh hưởng xấu,

Người sẽ bị ám ảnh bởi nhiều lời khoe khoang tai hại,

Và các nỗ lực phụng sự người khác sẽ gặp đầy khó khăn.

Nên nhớ tất cả những chướng ngại này là hậu quả các nghiệp xấu của người,

Và hãy cầu nguyện với Liên Hoa Sanh và Tsogyel bất phân.

Sau này, trong mười ba kiếp, ngươi sẽ tiếp tục phụng sự vô vị kỷ người khác,

Và rồi sẽ đầu thai vào một xứ man dã.

Về phía tây của rặng núi thiêng này, người sẽ xuất hiện như Namkha,

Trong thân kim cương, oai hùng và hung dữ, được gọi là Taksham,

Và như Taksham trong ba kiếp liền,

Người sẽ làm lặng gió nghiệp và xuất hiện trong ánh sáng hoa sen.

Sau đó, bất phân với ta, trong hợp nhất Phương Tiện và Trí Huệ,

Chúng ta sẽ phóng các hóa thân cho đến khi tất cả chúng sinh đều dứt luân hồi.

Rồi đại nguyện sẽ được thực hiện,

Rồi tinh túy của nhiều mật điển sâu xa sẽ được phổ truyền,

Rồi quả của thiền tập công phu sẽ chín,

Rồi trọn tiềm lực của các pháp tu tập và thành tựu sẽ phát triển,

Rồi phần thưởng của nghiệp tốt sẽ được ban,

Rồi đám mây lớn ơn phước sâu rầy sẽ bay qua bầu trời,

Rồi mưa từ bi sâu đậm sẽ rơi,

Ayra Sale sẽ đạt thành tựu,

Gyehva Jangchub sẽ được thực hiện trọn vẹn,

Bây giờ hãy cầu nguyện thành tâm, thiền quán sâu xa!”

Vào tối ngày mùng tám, mười hai loại Dãkinĩ Quỷ (do có hoạt động và hình dạng hung dữ) từ Xứ Dãkinĩ ở Orgyen xuất hiện, nói rằng họ có tất cả mười hai triệu vị. Vào khoảng nửa đêm, mười hai loại Dãkinĩ ăn thịt người tới, họ gồm các hạng hút sinh lực, cướp hơi thở, ăn thịt, uống máu, nhai xương, và các thứ khác, cho biết họ có tất cả năm triệu năm ngàn năm trăm người, làm cho đất và trời đầy những loài ăn thịt. Trong đêm khuya hàng đoàn Dãkinĩ Phàm Tục và Dãkinĩ thuộc Mười Hai Thời, gồm cả thảy mười hai triệu một trăm hai mươi ngàn vị, nói rằng họ đã cưỡi sư tử và các ác thú khác, các loài chim như chim Garuda, các loài thú nuôi như voi, và các loài thú rừng như hươu và tê giác, để tới đây. Họ mang nhiều hình dạng và tầm vóc khác nhau, mặt của họ được che bằng mặt nạ có hình mặt người và hình các loài khác. Trước khi mặt trời mọc, có thêm các Dãkinĩ khác xuất hiện nói rằng Dãkinĩ Bốn Hướng của xứ Orgyen và là Dãkinĩ của Mười Hai Đảo Lục Địa. Các Dãkinĩ này được phân biệt các đoàn màu trắng, đỏ, lục, xanh đen và vàng. Trong đoàn màu trắng, có Thiên Nữ toàn trắng, có vị một phần đỏ, có vị một phần lục, có vị một phần xanh, và có vị một phần vàng. Các đoàn đỏ, lục, vàng và xanh đen cũng có những vị có một phần màu khác như vậy. Tương ứng với điều này, tay họ cầm các loại biểu hiện khác nhau, các loại võ khí biểu lộ tính chất của họ. Họ choàng khăn lụa, đeo các loại trang sức bằng xương, đội vương miện, phần trên thân mặc áo choàng, phần dưới mặc váy. Họ mang chuông nhỏ, kèn xương đùi, trống sọ và hàng triệu loại nhạc cụ khác nhau không thể phân loại hay kể hết được. Có năm triệu hai trăm ngàn Dãkinĩ này. Trong lúc mặt trời mọc, các Dãkinĩ của Sáu Mươi Tám mandala và vị Dãkinĩ chính, Nữ Vương Vũ Điệu Hoa Sen Xinh Đẹp xuất hiện và tự tuyên xưng. Bầu trời tràn ngập ánh sáng cầu vồng lung linh, mặt đất thấm đầy hương thơm, ở giữa không trung là vô số các Dãkinĩ. Buổi chiều tất cả các Dãkinĩ của Ba Mươi Hai Xứ, Mười Địa Điểm Năng Lực Heruka, Tám Nghĩa Địa Lớn, và nhiều nơi khác cũng hiện ra trọn vẹn, mỗi vị múa theo điệu riêng của mình, mỗi vị có cử chỉ riêng, dùng một nhạc cụ độc đáo của mình, mỗi vị có biệt tài riêng, mỗi vị có cách thờ phụng riêng và lễ vật quý giá của mình, tất cả đều tôn thờ, ca tụng ta, đầy trời đất.

Ta mời họ dự một tiệc cúng trọng thể. Ta dùng huyền thuật cung cấp đầy đủ thực phẩm cho tất cả nhũng người thường tụ tập ở đó chỉ với một mật mía, và còn cung cấp nhiều hơn nữa cho các Dãkinĩ. Sau đó chỉ với một chén sọ rượu “chung”, ta cung cấp đủ cho cả người lẫn Dãkinĩ. Rồi ta đọc thần chú gia trì lực của các Dãkinĩ, và tức khắc đám người bỗng có cảm giác mình đang giao hợp với các Dãkinĩ. Ta đưa họ tới chỗ kiên cố bất thoái chuyển.

Vào tối ngày mùng chín, ta cùng các đệ tử từ Hang Tim ở sườn Núi Zapu đi lên đỉnh núi, giống Núi Màu Đồng Zangdokperi. Vào lúc ba giờ ngày mùng mười ta trình bày mandala của nghi thức “Thành Tựu Tâm Lama Qua Một Chủng Tự”, tức khắc vô số la sát xuất hiện. Các la sát này có loài ba đầu, loài một đầu, loài không đầu, loài năm đầu, loài sáu đầu, loài một trăm đầu, và vô số loài khác có rất nhiều đầu và có từ một chân tới một trăm ngàn chân. Họ nói: “Đại Sư Liên Hoa Sanh cho chúng tôi tới đây để hộ tống Nữ Vương của La Sát, Dãkinĩ Ánh Sáng Xanh Chói.

Lúc trời rạng sáng, sau khi ta làm lễ cúng, Gyelvva Jangchub và mười một đệ tử trung thành, tất cả đoàn người, các Bồ Tát, các Dãkinĩ, la sát, quỷ thần đều thành kính cúi lạy ta. Nước mắt đau khổ ròng ròng trên mặt, Gyelvva Jangchub nói với ta:

“Than ôi! Dãkinĩ Trí Huệ,

Vị Thầy Hóa Thân, Yeshe Tsogyel,

Ngài, Mẹ duy nhất của Tây Tạng, đang nhập vào cõi không.

Bọn trẻ nhỏ tri thức chúng con sẽ làm gì khi không có sự hộ trì của ngài?

Chúng con xin ngài bảo hộ Tây Tạng lâu dài thêm nữa.

Nếu ngài phải đi, nếu ngài không thể nào ở lại,

Xin hãy để cho chúng con biết những thăng trầm của việc hoằng hóa trong tương lai ở Tây Tạng.

Xin cho biết tên của những vị cầm đuốc Giáo Pháp.

Cho chúng con biết về việc hóa thân có tính cách ma quỷ, hủy diệt xuất hiện,

Và điềm báo về sự đối kháng tai họa.

Nhất là cho biết về các hóa thân của ngài sau này,

Tên họ, mục đích và nơi chốn của các hóa thân này,

Hoạt động của các hóa thân vì người khác, và tính chất các giáo lý của các ngài.

Chúng con cầu khẩn ngài nói về các điều này, Nữ Vương Toàn Trì,

Không bí ẩn hay bằng biểu tượng, mà rõ ràng,

Và nhất là nói về các sự tích dài, ngắn, và rút gọn của Ngài,

Xin nói về “Giọt Tim của Thiên Nữ Hóa Thân”

Và bộ “Giáo Lý Khẩu Truyền Cao Và Thấp, Mẹ Và Con”,

Chúng con sẽ truyền bá ra sao? Bí mật hay công khai?

Và sẽ truyền cho những người may mắn nào?

Nếu đó là những bảo tạng thì nên cất dấu ở đâu?

Ai sẽ là những người tìm ra bảo tạng, và những dấu hiệu gì sẽ xuất hiện với họ?

Xin cho chúng con biết chi tiết và trình bày nhiều hơn.

Và đoàn anh em chúng con phải làm gì bây giờ?

Chúng con phải tin tưởng, hy vọng và trông cậy vào đâu?

Ai sẽ cầu nguyện cho chúng con khi chúng con qua đời và giải trừ những chướng ngại trong cõi “bardo”?

Xin thương xót và mau giúp đỡ chúng con!”

Ta trả lời:

Hãy chú ý nghe, người và thần Tây Tạng,

Hãy nghe cho kỹ, hỡi những người thành tín và có phước.

Ta, Đấng Tối Thượng, Yeshe Tsogyel,

Ta đã phụng sự Tây Tạng hai trăm mười một năm, và từ đây,

Vua Tri Repachan, Người Bảo Hộ Giáo Pháp, một hóa thân của Kim Cương Thủ,

Sẽ hoằng truyền giáo lý kinh điển và mật điển.

Em trai của ngài, hóa thân ma quỷ Bò Langdarma, sẽ âm mưu với các quan,

Và sau khi sát hại anh của mình, Bò sẽ ngự trị vương quốc,

Và còn xóa bỏ kỷ niệm về các tu viện và kinh sách.

Y sẽ ra pháp lệnh thù địch với Phật Giáo,

Dựa trên mười điều xấu và năm tội nặng.

Các hành giả thành tâm nhất của Giáo Pháp sẽ bị giết,

Những người khác bị lưu đày, ít nhất cũng bị bắt làm nô lệ,

Nhưng các anh em kim cương Mật Giáo nơi thôn làng sẽ duy trì giáo lý,

Trong khi Lhasa và Samye bị cướp bóc và hoang tàn.

Khi Pelgyi Dorje nhớ lại lời chỉ dẫn tiên tri của Đức Đại Sư,

Anh ta sẽ hạ sát vị vua quỷ và trốn về Mekham

Hai tu sĩ Mar và Yo sẽ phục hồi giáo lý thuần túy của luật tạng.

Mười vị tăng sẽ hội họp ở Lang Thang Drolma thuộc tỉnh Kham,

Ánh sáng rực rỡ của Giáo Pháp sẽ được tái lập ở Trung Tây Tạng và ở Tsang.

Một xứ Tây Tạng mộ đạo sĩ sẽ tôn vinh giáo lý,

Và qua năng lực của các cao tăng Mật Giáo sẽ lan truyền khắp thế gian

Nhưng sẽ có nhiều hành vi trái giới luật và vô luân.

Một hóa thân của khẩu Orgyen, hóa thân cuối cùng của Santaraksita,

Tên là Atisa, sẽ truyền bá kinh điển và mật điển.

Ta, Tsogyel, sẽ có tên là Jayakara,

Ta sẽ là thị giả của vị dịch giả họ Dom, đại đệ tứ của Atisa.

Khi tuổi thọ trung bình là bảy mươi giáo lý sẽ phát triển,

Và thế gian sẽ được sáng sủa với kinh điển và mật điển.

Sau đó, khi tuổi thọ giảm xuống sáu mươi năm,

Sa (Phagspa, thế kỷ 13), một hóa thân của Vua Trisong Detsen sẽ cầm đuốc Giáo Pháp.

Khi dòng Vua của ngài suy yếu, người Thát Đát sẽ bảo hộ các Lama.

Drokmi, một hóa thân của Thân Liên Hoa Sanh, sẽ xuất hiện,

Truyền dạy pháp Đạo Quả Đồng Nhất, tái lập truyền thống kinh sách của kinh điển và mật điển,

Sự xuất hiện của ngài sẽ được so sánh với sự hạ sanh nơi thế gian của Phật Thích Ca.

Sau đó, khi sức mạnh của dòng Sakya không còn,

Giáo lý của Phak sẽ chiếm ưu thế, tuổi thọ trung bình sẽ là năm mươi.

Cựu phái sẽ được tái lập, Giáo Pháp sẽ mạnh như hiện tại.

Từ Lhorong, một hóa thân của Ý Liên Hoa Sanh sẽ xuất hiện,

Tên của ngài sẽ là Marpa, và việc truyền dạy Mật Giáo sẽ gia tăng.

Ta, Tsogyel, sẽ là người phối ngẫu và hỗ trợ của Marpa.

Milarepa sẽ thực hành khổ tu và đạt thành tựu,

Một hóa thân của Tánh Liên Hoa Sanh sẽ xuất hiện ở Dakpo.

Dri, Tak, Kar và Druk (các giáo phái Kagyu) sẽ chảy mạnh như những dòng thác từ Tise.

Biển Pháp sẽ tồn tại tới cùng để đưa chúng sinh tới hạnh phúc.

Khi tuổi thọ trung bình giảm còn bốn mươi, giáo lý sẽ bị vỡ thành từng mảnh.

Được duy trì bởi những người man rợ như người Thát Đát, giáo lý sẽ thô thiển,

Tây Tạng sẽ bị chia thành các xứ tự trị nhỏ,

Và thế gian sẽ đầy ung nhọt.

Lúc đó sẽ có một hóa thân của Hành Động Liên Hoa Sanh tên là Karma (thế kỷ 14),

Và giáo lý sẽ được truyền bá khắp Tây Tạng ba mươi năm nữa,

Tiếng niệm thần chú MANI sẽ vang khắp vương quốc.

Sau đó, khi tuổi thọ trung bình là ba mươi, phái giới luật (dòng Gelukpa) sẽ xuất hiện.

Một hóa thân của tinh túy Liên Hoa Sanh sẽ có mặt ở Trung Tây Tạng,

Và Tây Tạng sẽ trở thành một thiên đường lạc thú.

Giáo lý của vị vua triều đại Zahor man rợ

Sẽ được thiết lập ở Trung Tây Tạng, Tsang và Kham.

Một xứ Tây Tạng vô phước sẽ rối loạn.

Mọi người đều trông cậy vào sự giúp đỡ của Thát Đát.

Khi tuổi thọ là hai mươi, một hóa thân của Khẩu Liên Hoa sanh.

Sẽ xuất hiện ở Lhodrak mang hạnh phúc cho chúng sinh.

Một vị vua với một nốt ruồi trên vai sẽ xuất hiện ở Khotan,

Giáo lý của ngài sẽ lâu bền tới tận cùng. Tuổi thọ sẽ giảm xuống mười năm,

Và rồi vào cuối kỷ nguyên, qua các hóa thân tinh khí của đất sẽ bị thâu lại,

Và Người Giết Quỷ Đen sẽ ngự trị qua một thời kỳ đen tốt gọi là Gyachu Mulkal,

Kết thúc khi Đức Di Lặc xuất hiện và tái sinh.

Những lời tiên tri này chỉ nói tổng quát.

Để tránh sai lầm về các biến chuyển, hãy coi lời tiên tri của Đức Liên Hoa Sanh,

Lời nói thật thì không có tính cách lừa dối.

Bây giờ ta trả lời câu hỏi về các hóa thân của ta:

Ta, Đấng Tối Thượng này, Yeshe Tsoguel,

Tỏa ánh sáng phương tiện thiện xảo qua các hóa thân,

Ta sẽ hướng dẫn mọi người đời sau đạt tôi hạnh phúc.

Đặc biệt là năm hóa Thân, năm hóa thân của Khẩu,

Năm hóa thân của Ý, năm hóa thân của Tánh, và năm hóa thân của Hành Động,

Hai mươi lăm hóa thân này sẽ liên tục hộ trì Tây Tạng.

Mỗi hóa thân này sẽ phóng ra năm hóa thân phụ,

Và mỗi hóa thân phụ này sẽ phóng các hóa thân thứ ba, cứ như thế,

Cho tới khi chúng sinh đều là các hóa thân,

Hợp nhất với Đại Mẫu an lạc,

Tụ vào cõi lạc thú, bầu trời trong của Kuntuzangmo.

Tóm tắt là năm trăm năm sau,

Khi Tây Tạng là một đồn quân lớn đầy gươm giáo,

Và các thung lũng cùng núi non đầy thành trì,

Một nữ quỷ tà đạo sẽ đưa người ta đi lạc đường,

Khi lối dạy sai lầm về pháp Đoạn Lìa (Chod) của nó lừa dối xứ này,

Một hóa thân của Thân ta sẽ phóng một hóa thân của khẩu có tên là Drolma,

Một hóa thân Thân của Thân ta, có tên là Kunga Zangmo sẽ xuất hiện,

Một hóa thân Ý của Thân ta, có tên là Pelmo của Trung Tây Tạng, sẽ được phóng ra,

Một hóa thân Tánh của Thân ta được gọi là con Tâm Linh sẽ xuất hiện ở Yeru

Và một hóa thân hoạt động của Thân ta sẽ xuất hiện ở Tamyul, tỉnh Kham.

Như vậy truyền thống kinh sách của Mật Giáo thâm diệu sẽ lại được xác lập,

Pháp bí truyền hoàn hảo đoạn lìa sẽ được thiết lập lại,

Bốn gia hộ sư tử của các đệ tử sẽ hóa độ mọi người

Sau đó, nước Tây Tạng lệ thuộc người Sakya và người Mông Cổ.

Thống Đốc Trung Tây Tạng và Tsang giống như con mắt cố định của hột xúc xắc,

Giáo lý của Đức Phật giống như ngọn lửa của một cái đèn bơ đầy ngập,

Ảnh hưởng xấu của tà giáo giống như bão bụi khắc nghiệt.

Lúc đó một trăm người xuất lộ bảo tạng, như Đức Liên Hoa Sanh đã tiên tri, sẽ xuất hiện.

Và các bảo tạng của Mật giáo sẽ làm cho thế gian thái bình

Khi các vụ phát hiện giả được đặt ra, khác với một trăm người xuất lộ bảo tạng,

Và các vụ phát hiện ma thuật của các phù thủy tệ hại tràn lan,

Một hóa thân Thân là Khẩu của ta sẽ xuất hiện ở Ngari,

Và tên tuổi lớn này sẽ phân biệt các vụ phát hiện thật với giả,

Một hóa thân Khẩu là khẩu của ta, một nữ tu, sẽ xuất hiện ở Trung Tây Tạng,

Và được gọi là Orgyen, thiết lập một tu viện,

Biểu lộ khả năng lão luyện Mật Giáo,

Một hóa thân Ý là Khẩu của ta sẽ xuất hiện ở Tasho,

Người đó sẽ được gọi là Pema, sẽ có những phát hiện sâu xa,

Ban thành tựu cho những người có cơ duyên và có ý chí,

Một hóa thân Tánh là Khẩu của ta sẽ xuất hiện ở Kongpo,

Đệ tử này sẽ giúp đỡ quần chúng,

Và dẹp mọi chướng ngại mà các người xuất lộ bảo tạng gặp.

Một hóa thân Hoạt Động là Khẩu của ta sẽ xuất hiện ở Tsang,

Được gọi là Jomo, cô ta sẽ lập một thiền viện Phakmo,

Và nghi thức Mặt Heo sẽ lan tràn khắp thế gian.

Sau đó các đạo quân ngoại xâm sẽ tràn ngập như ao hồ mùa hè.

Hai phái Sakya và Drigung (thuộc dòng Kahgyu) tranh luận và đe dọa khắp vùng biên địa.

Người nào cũng bảo thủ ý kiến của mình.

Tín đồ của các phái cũ và mới bắt đầu chia phe tranh chấp,

Và sự phân biệt giữa đạo và đời sẽ mờ nhạt.

Lúc đó một hóa thân Thân là Ý của ta sẽ xuất hiện ở Nyaksa,

Và được gọi là Orgyen, làm gia tăng trí huệ của các thành tựu giả.

Một hóa thân Khẩu là Ý của ta có tên là Sonam Peldren,

Hay có hành vi tầm thường, sẽ xuất hiện ở miền bắc,

Kín đáo ban thành tựu cho người may mắn,

Các đệ tử giỏi của anh ta sẽ để lại các bằng chứng thành tựu khi qua đời.

Một hóa thân Ý là Ý của ta tên là E ở Trung Tây Tạng,

Sẽ dẫn dắt các đệ tử thân cận tới Thiên Đường Dãkinĩ,

Dạy đạo giải thoát cho nhiều hành giả thực hành môn điều khiển tinh lực.

Một hóa thân Tánh là Ý của ta sẽ xuất hiện ở Lhodrak,

Và bất cứ ai liên quan tới sự biến hình của anh được đặt trong an lac.

Một hóa thân Hành Động là Ý của ta sẽ xuất hiện ở Trung Nepal,

Ở đó anh ta sẽ đưa nhiều người đi theo con đường phương tiện thiện xảo.

Sau đó các hóa thân của Hoàng Đế sẽ được chia thành năm.

Ở Tsang quan khâm sai giống như con đom đóm,

Các đồn ở Tramo giống như những ngôi làng ảo ảnh,

Tin tức tốt nghe như những bài hát của đoàn Thiên Nhạc,

Lời dạy sai lầm của các cao tăng giống như thuốc độc bọc đường.

Các pháp sư thì giống như đèn bơ cạn.

Hor và Mông Cổ trở thành giáo sĩ và người bảo hộ, nệm ngồi của họ chạm nhau.

Lúc đó một hóa thân về Thân là Tánh của ta, một Dãkinĩ, sẽ xuất hiện ở Trung Tây Tạng.

Một hóa thân Khẩu là Tánh của ta, có tên là Drolma, sẽ xuất hiện ở Kham.

Một hóa thân Ý là Tánh của ta, một “Tulku” (hóa thân của một cao tăng) sẽ xuất hiện ở Nyelmo.

Một hóa thân Tánh là Tánh của ta sẽ xuất hiện như một bậc thầy ở miền Bắc.

Một hóa thân hành động là Tánh của ta sẽ xuất hiện ở Tsangrong.

Những ai liên quan tới sự biến hình kỳ lạ của họ cùng các màn biểu diễn huyền thuật,

Và các quyền năng tâm linh của họ, sẽ được đưa tới Cõi Tịnh.

Sau đó, tất cả miền Thượng và Hạ Tây Tạng điều bị chia nhỏ,

Kẻ mạnh chiếm các đèo, thung lũng, hẻm núi, và ruộng đất được chia lại.

Các gia đình phải đăng ký và đất công được giới hạn.

Của cải được tập trung ở Hor, và mọi người phải mặc y phục Thát Đát.

Người sùng tín cũng đi đánh trận, càng ngày càng nhiều tu sĩ chỉ huy quân đội.

Các tăng sĩ cưỡi lạc đà đánh trận.

Các nữ tu trở thành lao công, còn các cư sĩ thì thuyết pháp.

Trẻ em phải lao động nặng nhọc.

Lhasa bị nước phá hủy, Samye bị lửa thiêu đốt.

Trandruk sụp đổ và Bốn Quận bị tiêu diệt.

Lúc đó một hóa thân là Thân của Hành Động của ta sẽ xuất hiện ở Chimphu,

Một hóa thân Khẩu là Hành Động của ta sẽ xuất hiện ở Ngari,

Một hóa thân Ý là Hành Động của ta sẽ xuất hiện ở Puwo,

Một hóa thân Tánh là Hành Động của ta sẽ được phóng xuất ở Dokham,

Một hóa thân Hành Động là Hành Động của ta sẽ xuất hiện như một nữ thủ lãnh ở Trung Tây Tạng,

Với các hình dạng khác nhau của mình, những người này cũng,

Hướng dẫn mọi người tới một cõi Trời,

Và đưa bất cứ ai có liên hệ với họ tới Cõi Tịnh,

Và phóng ra các hóa thân của chính họ trong các Thung Lũng Bí Mật,

Phụng sự tất cả những ai có nghiệp tốt, và dẹp bỏ các chướng ngại.

Nên nhớ là từ nay cho tới khi các cõi luân hồi trống rỗng,

Vô số các hóa thân lần một và lần hai sẽ xuất hiện liên tục.

Và nên nhô trong tương lai bất cứ ai thực hành điều khiển tinh lực,

Thì người giỏi nhất sẽ thấy ta hiển lộ thực sự, người trung bình sẽ thấy các ấn chứng,

Và người thứ cấp sẽ thấy hình ảnh ta trong mộng.

Ta sẽ là một với tánh của các người hoặc xuất hiện như Dãkinĩ của các con.

Đối với những người giữ giới nguyện,

Ta sẽ giải trừ các chướng ngại và gây cảm hứng hành thiền,

Để nhanh chóng phát sinh hơi ấm, an lạc và thành tựu.

Về các sự tích dài, ngắn, và sơ lược của ta,

Hãy cất dấu sự tích dài trên Đỉnh Zapu này,

Cất giấu các bản sơ lược ở Namkechan, Lhodrak,

Và cất dấu bản sự tích ngắn này ở Lhorong Kham.

Về hai quyển “Giáo Lý Khẩu Truyền Cao và Thấp” và “Giọt Tim Dãkinĩ”,

Tốt nhất là các người hãy phân tán các bản tiên tri.

Jangchub và Ma sẽ tìm lại,

Và họ sẽ thành tựu các mục đích trong đời sau.

Đặc biệt là, về quyển sự tích này, có chín trường hợp tốt sau đây:

Thứ nhất là nếu nó được xuất lộ bởi một người tên là Choivong,

Nó sẽ nổi tiếng khắp vương quốc, làm lợi cho chúng sinh,

Và rốt cuộc, khi tới Trung Hoa, sẽ hóa độ nhiều người ở đó.

Nếu trường hợp này không xảy ra,

Một người tên là Tashi sẽ xuất hiện ở Lato,

Và nếu nó được tìm lại bởi người có búi tóc củ hành này,

Nó sẽ hóa độ nhiều người ở Trung Tây Tạng, Tsang và Kham, vì lợi ích của chúng sinh,

Và sau cùng nó sẽ làm tăng trưởng Tăng Đoàn ở Trung Nepal.

Nếu không có cơ hội này và nó vẫn ở chỗ cất dấu,

Một người tên là Dorje, người Pawo,

Sẽ xuất hiện ở miền nam, trong Rặng núi Lhorong,

Nếu anh ta tìm được nó, nó sẽ nổi tiếng khắp Dokham,

Và cuối cùng nó sẽ hóa độ nhiều người ở Hor.

Nếu không như vậy, một người tên là Raja ở vùng Shampo,

Một thánh nhân khùng, sẽ tìm thấy nó.

Hoặc một người tên là Dorje, người Puwo,

Và một người tên là Kunga ở miền đông sẽ lấy lại nó,

Mỗi người sẽ chép một nữa quyển này vì lợi ích chúng sinh,

Nếu họ không tìm thấy nó thì trường hợp cuối cùng sẽ xảy ra,

Với ba người đàn bà, hoặc nó sẽ tự hiển lộ.

Trong trường hợp cuối này nó sẽ chỉ được biết tới ở vùng mà nó được tìm thấy.

Trong tương lai khi đường đi của chín đạo nhân này gặp nhau,

Giáo lý sẽ bừng nở.

Đặc biệt là ở một nơi gọi là Katok thuộc miền đông, nguồn giáo lý của Đại Sư Sư Tử Hống, nơi Đức Liên Hoa Sanh làm mười ba lễ phụng hiến, nơi một quả núi có hình dạng một con Sư Tử cất cao đầu, các bảo tạng thâm diệu nhất đã được cất dấu trong họng của quả núi này.

Hai ngàn năm trăm năm nữa,

Sẽ có điềm báo việc thu hồi các bảo tạng này.

Liên Hoa Sanh và Người Phối Ngẫu của Ngài sẽ làm phong phú vùng này, phụng sự người khác.

Dampa Gyeltsen và Tsogyel sẽ xuất hiện ở đó.

Mật Giáo tối thượng sẽ trụ ở đó cho tới cùng tận,

Và dù có khi suy thoái,

Nhưng người có phước sẽ xuất hiện đúng lúc,

Đệ tử cuối cùng của ta sẽ được hóa độ ở đó.

Tới đây là chấm dứt những lời hướng dẫn của ta dành cho các con.

Bây giờ ta không thể nán lại lâu hơn.

Hãy cầu nguyện lớn tiếng cùng với nhau rồi trụ trong thiền định.

Các đệ tử ở đây cũng như những đệ tử đời sau,

Phải ghi nhớ những lời dạy và những lời tiên tri của ta”.

(Phần cuối của sự tích Đức Bà Tsogyel được Atsara Sale kể lại. Atsara Sale là người chép sự tích và là kiếp trước của Taksham người xuất lộ sự tích này.)

Đức Bà Tsogyel dùng bàn tay trái chạm vào Tashi Chidren, cô gái người Bhutan, cô ta liền biến thành một bông sen xanh tám cánh, ở giữa và mỗi cánh có các chủng tự HUNG PHAT, và bông sen nhập vào ngực bên phải của Tsogyel. Với bàn tay trái Tsogyel chạm vào Kalasiddhi người Nepal, anh ta biến thành một bông sen đỏ mười sáu cánh với một nguyên âm và chủng tự HRI trên mỗi cánh, và bông sen đỏ này nhập vào ngực của Đức Bà.

Tới giáp ngày mùng mười, xuất hiện một đoàn hộ tống gồm Tứ Đại Thiên Vương dẫn đầu các vị đã thề nguyền bên ngoài, bên trong và bí mật, cùng tám hạng và mười hai cấp thần linh. Họ thỉnh cầu:

Toàn thể đoàn hộ tống Ngayab Linh đã tập hợp. Xin mời Trí Giả Dãkinĩ Ánh Sáng Xanh Chói

Thần và người Tây Tạng cúi lạy Đức Bà chín lần để xin trì hoãn cuộc chia ly, giống như các sách khác đã kể. Sau khi họ đã cố gắng giữ Đức Bà ở lại mà không được, Doije Lekpa người xứ Tsang, Machen Porara người miền đông, Rongtsen Mebar người miền nam, Tsomen Gyelmo người miền bắc, Gangzang Hao người miền tây, Lijin Harlek người Trung Tây Tạng và ThangLha Gangtsen thuộc loài quỷ ôn dịch, và tất cả các Thần Đất Lớn và quỷ ôn dịch nhiều vô số, mỗi vị cùng đoàn tùy tùng của mình, vây quanh Đức Bà. Bà ban đặc biệt cho họ nhiều sách trong đó có cuốn “Trả lời các câu hỏi của các hộ pháp Tenma: Lời sấm của Quỷ Thần”, nội dung rất dài nên tôi không thể kể ra đây được.

Khi tia sáng mặt trời đầu tiên lóe lên vào ngày mùng mười, một cái kiệu bằng ánh sáng có bốn Dãkinĩ làm thành hình bông sen tám cánh hạ xuống như một ngôi sao băng trước Tsogyel. Biến thành Vajra Yogini rực rở, tay phải cầm trống “damaru”, tay trái cầm chén sọ, Tsogyel bước lên kiệu. Lúc này đám đông người bắt đầu than khóc không thể kiềm chế được. Họ kêu: “Chúng con biết nói với dân Tây Tạng thế nào? Chúng con phải làm sao?”

Đức Bà Tsogyel trả lời:

“Ta xin các người! Hãy nghe ta nói, hỡi các người Tây Tạng trung thành với ta!

Hãy nói với dân Tây Tạng rằng ta biến vào cõi không, cõi có ở khắp nơi,

Và các đau đớn thể xác đã dứt.

Nói với họ rằng rốt cuộc Tsogyel đã đạt cõi Tịnh,

Và các vai đau khổ của thân người đã qua rồi.

Nói với họ rằng thân máu thịt giả ảo đã biến đổi,

Không còn cần sự chẩn bệnh, cho thuốc, chích máu, và kim nóng nữa

Nói với họ rằng khi lý vô thường được hiểu rõ,

Những thứ có vẻ vững chắc, thường tồn sẽ biến mất

Nói với họ rằng cuối đường đạo là thân ánh sáng,

Rằng thân xác này, cái túi nước và mủ này phải tiêu tán

Ama Tsogyel đã hòa nhập vào chủng tự A nguyên thủy,

Và những tiếng kêu than đã dứt.

Nói với họ rằng bên ngoài và bên trong, mẹ và con, đã hợp nhất,

Cái thể xác dư thừa gồm thịt và máu đã biến mất.

Rằng lòng từ bi của Đức Đại Sư không bao giờ cạn,

Đoàn tiếp đón của ngài hiện ra ở đây bao vòng vũ trụ.

Nói với họ rằng con đàn bà bất trị này, kẻ nữ nhân phóng đãng này,

Người nữ này đã chín lần đạt được sự bất khả,

Rằng con gái của Tây Tạng, con đàn bà không chồng, khó ưa này,

Hiện giờ là pháp thân của nữ vương Kunzang.

Nói với họ rằng người nữ này, quá phù phiếm và giả dối, thành công trong sự giả dối cuối cùng của mình đã đi về hướng Tây Nam.

Nói với họ rằng người nữ đa tình này, luôn ham những trò mưu mô,

Do mưu mô đã biến vào cõi không (chứ không do tài năng!)

Nói với họ rằng góa phụ Tây Tạng này, người đã bị đàn ông Tây Tạng chối bỏ,

Đã đắc Phật quả.

Các người đừng tuyệt vọng! Hãy cầu nguyện để nhận được các luồng sóng gia hộ!

Tsogyel sẽ không bao giờ bỏ các đệ tử trung thành của mình!

Khi nào các người cầu khẩn, ta sẽ xuất hiện.

Vậy các bạn của ta, hãy về nhà cầu nguyện!

Chúc các người được phúc lộc tăng gia!”

Nói xong, Đức Bà tỏa ánh sáng cầu vồng rực rỡ rồi nhập vào trong một bầu ánh sáng xanh hình hạt mè (tinh chất) rồi biến mất. Bốn cánh sen Dãkinĩ vần vũ bay lên cao mãi cho đến khi khuất dạng. Các người chứng kiến đồng thanh kêu lên:

“Than ôi! Yeshe Tsogyel!

Ngài quá nhẫn tâm! Ngài quá ít từ bi!

Nếu ngài không hộ trì Tây Tạng nữa,

Bọn người khốn khổ chúng con biết trông cậy vào ai?

Mẹ của chúng con đã đi về cõi tịnh,

Nhưng ai sẽ cứu xứ Tây Tạng ô trược này?

Mẹ của chúng con đã nhập vào cõi không,

Ai sẽ hướng dẫn chúng con khi quả xấu cuối cùng xuất hiện?

Mẹ của chúng con đã đi tới Cõi Đại Lạc,

Ai sẽ dạy bảo chúng con, những kẻ lang thang trong luân hồi đau khổ?

Mẹ của chúng con đã biến vào ánh sáng hoa sen,

Ai sẽ đưa chúng con đi qua những hẻm núi của Tây Tạng

Mẹ của chúng con đã đi chầu Đức Liên Hoa Sanh,

Ai sẽ cứu giúp những kẻ cùng khổ không biết nương tựa vào đâu?

Than ôi! Xin tiếp tục biểu lộ lòng từ bi vì chúng con!

Xin để lại cho chúng con một lời cầu nguyện ngắn vì hạnh phúc của Tây Tạng.

Xin để lại vài lời di huấn cho cả xứ Tây Tạng!

Làm sao bọn đệ tử chúng con có thể làm dịu đau khổ?

Mẹ của chúng con, xin tiếp tục hộ trì chúng con!

Xin đưa chúng con tới cõi ánh sáng hoa sen vô tận!”

Sau khi kêu than gần như điên dại với Vị Thầy đã đi xa của chúng tôi, tất cả chúng tôi lăn xuống đất khóc la ầm ĩ. Bỗng có một tiếng nói phát ra từ một làn ánh sáng rực rỡ:

Ôi đáng thương! Hãy nghe đây, những người dân Tây Tạng trung thành buồn khổ của ta!

Đấng tối thượng này là nữ vương Dăkinĩ của Hồ Trí Huệ!

Mà thân ô trược đã hòa nhập vào cõi không thanh tịnh,

Ta một vị Phật trong ánh sáng hoa sen cõi pháp giới.

Nói với các người là không việc gì phải lo buồn, mà hãy vui lên!

Dân Tây Tạng đầy ưu tư,

Đây là thói quen thành hình do nghiệp xấu.

Khi các người thấy rằng đau khổ của mình là do chính mình tự tạo.

Thì tam bảo là nơi an ổn để các người tránh thoát đau khổ.

Hãy cầu nguyện với niềm hy vọng và sự hộ trì duy nhất này!

Đấng tối thượng này là nữ vương Dãkinĩ của Hồ Trí Huệ!

Sau khi thanh lọc các ô trược ta đã lên trời,

Nay ta phụng sự chúng sinh bằng hóa thân huyền diệu.

Đừng tự làm khổ mình, hãy vui lên!

Khi các người trông thấy thân xác này cùng những tính xấu của nó

Là chỗ của các cảm xúc là nguồn gốc của nghiệp xấu,

Và biết rằng giáo lý Phật Đà là con đường dẫn tới sự cải hóa tốt cho mình,

Thì hãy cố gắng làm mười điều lành mà các người đã được dạy.

Đấng tối thượng này là nữ vương Dãkinĩ của Hồ Trí Huệ!

Ta đã về cõi không, mục tiêu của chánh đạo,

Để lại những công hạnh có sức mạnh vô cùng.

Đừng nản chí mà hãy vui lên!

Khi các người thấy rằng nhiều hành vi của mình,

Là những nghiệp xấu, sẽ đưa các người tới địa ngục,

Thì hãy buộc hành vi và lời nói của mình vào đức hạnh để thanh lọc các cõi thấp,

Và hợp nhất thân khẩu, ý đi theo con đường đạo hạnh.

Đấng tối thượng này là nữ vương Dãkinĩ của Hồ Trí Huệ!

Ta đã đi tới Cõi Đại Lạc thanh tịnh,

Sau khi dạy các đệ tử pháp giải thoát rốt ráo,

Đừng nản chí, mà hãy ca hát lên!

Khi các người biết tới khuynh hướng tạo tà kiến gây đau khổ cho mình,

Là biển khổ không bờ bến của luân hồi,

Thì một vị Lama chân chính sẽ có phương tiện thiện xảo cứu độ các người thoát phiền não.

Vậy hãy tìm một bậc thầy thiện xảo và làm theo lời dạy của ngài.

Đấng tối thượng này là nữ vương Dãkinĩ của Hồ Trí Huệ!

Ta đã nhập vào cõi ánh sáng hoa sen, cõi pháp giới,

Để sinh ra ở bên trong một bông sen thanh tịnh.

Đừng nản chí, mà hãy tin tưởng!

Khi các người đã thôi bám giữ vào các hẻm núi sỏi đá này,

Xứ Tây Tạng đầy tranh chấp,

Hãy từ bỏ mọi hoạt động không cần thiết mà tìm sự an tĩnh, vẳng lặng

Tập vận chuyền tinh lực, thanh lọc các kinh mạch và tinh chất,

Tu luyện Mahamudra và Dzogchen.

Đấng tối thượng này là nữ vương Dãkinĩ của Hồ Trí Huệ!

Trở nên khiêm hạ, ta đã theo học với Đại Sư Liên Hoa Sanh qua lòng từ bi của ngài.

Và nay ta đã đi hầu ngài.

Đừng nản chí, mà hãy cầu nguyện!

Khi các người thấy thân nghiệp chướng của mình mong manh như bọt nước

Thì hãy nhận ra lý vô thường, và biết rằng khi chết mình bị bơ vơ,

Hãy tỉnh ngộ với ảo vọng trường tồn,

Hãy làm cho cả cuộc đời của mình là một nghi thức hành trì,

Và hãy tu tập để đạt chứng nghiệm đưa các người tới mục tiêu của pháp Atiyoga.

Hãy nghe ta nói, hãy ngừng than khóc!

Lòng từ bi của ta, không bao giờ suy suyển.

Hành vi của các người quả là lối phản ứng của những kẻ mang tà kiến: các pháp là thường tồn.

Ta không chết, ta không bỏ các người, mà ta cũng không đi đâu cả.

Hãy cầu nguyện, ta thề sẽ cho các người thấy thực tướng của ta,

Và đối với những người nhất tâm sùng tín ta sẽ ban cho bất cứ thành tựu nào mà họ muốn,

Từ bây giờ cho tới khi không còn loài người tại thế gian này nữa.

Là nơi Đức Đại Sư làm công việc hóa độ,

Tây Tạng đã giác ngộ thành cõi của Đức Quán Thế Âm Đại Từ Bi.

Với Đức Văn Thù là Pháp Chủ,

Và qua hào quang cùng thần thông của Đức Kim Cương Thủ, Chủ Tể Mật Giáo,

Biển pháp sẽ trường tồn không có sự phá hoại của ngoại đạo,

Ma quỷ đều đã được nhiếp phục,

Các trường dạy kinh điển hãy cầm đuốc Giáo Pháp.

Và do các vị thầy Mật Giáo đã đạt năng lực huyền diệu,

Toàn xứ Tây Tạng nên có nhiều tu viện.

Người dân Trung Tây Tạng ở đời này và các đời sau,

Nên coi Tam Bảo là các vị chứng giám cho những sướng khổ của mình,

Cố gắng làm mười điều tốt, và bỏ mười điều xấu.

Tham cứu kinh sách để biết về các hoạt động bên ngoài và bên trong.

Về điều phải và điều trái, hãy nhất tâm làm theo lời Guru Pema.

Về tục lệ xã hội và dân giả, hãy tuân theo luật pháp của nhà vua.

Pháp luật của Bốn Quận Trung Tây Tạng nên được căn cứ theo Giáo Pháp.

Hãy dẹp loạn ngoại xâm bằng thần thông,

Với từ bi, các vị thần và Tam Bảo sẽ làm cho họ phải rút lui.

Tu sinh trong các tu viện nên học theo kinh sách.

Các cư sĩ nam nữ tu tập theo đạo pháp.

Hãy hết sức khiêm tốn và kính cẩn mà tôn trọng người trên,

Và phân phát của cải dư thừa của mình cho người dưới.

Tất cả mọi người nên lần chuỗi hạt, niệm Thần Chú Sáu Chữ vì lợi ích chúng sinh,

Và thành tâm cầu nguyện Đức Liên Hoa Sanh, Pháp Chủ của chúng ta.

Với lòng tôn sùng, đoàn thể này nên nhận bốn lễ gia trì lực.

Cầu nguyện lớn tiếng và kêu hồng danh Tsogyel,

Khi nhận bốn lễ gia trì lực, tâm các người sẽ hợp nhất với tâm của ta.

Hãy giữ tâm vô niệm, trụ trong thiền định thường trực.

Đối với đa số dân Tây Tạng đời sau,

Liên Hoa Sanh là Lama,

Và mọi người nên tự đồng hóa với ngài.

Tất cả tự biến hóa thành thân của Đại Sư Liên Hoa Sanh.

Sẽ được ban ơn phước đại từ bi.

Hãy tu tập theo các nghi thức dài hay rút gọn “Thành Tựu Tâm Lama”,

Ta hứa các người sẽ đắc Phật Quả ngay trong đời này.

Hãy niệm thần chú GURUSIDDHI.

Làm lễ cúng và dâng lễ vật,

Vào các ngày, mùng tám, mùng mười, mười lăm và hai mươi lăm mỗi tháng,

Mỗi lễ cúng là một lần đóng cánh cửa tái sinh vào các cõi thấp,

Và ta thề rằng như vậy các người sẽ được đưa tới mức giải thoát bất thoái chuyển.

Hãy coi đây là lời hứa nghiêm chỉnh.

Khi được niệm ngược, thần chủ GURU SIDDHI là tinh túy của Lama:

HUNG là sinh lực chung của chư Phật ba đời,

DHI là quyền năng chư thần linh bổn tôn Yidam và các Đấng Nhiếp Phục,

SID là hoạt động huyền diệu của các Dãkinĩ cùng các hộ pháp đã thề nguyện,

MA đoạn lìa vô minh của chúng sinh,

PAD là cõi tịnh của Chư Phật ba đời,

RU đóng cửa chặn gió nghiệp,

GU ban lực Trí Huệ và Từ Bi,

JRA là Tính không bất khả hủy diệt của Mahamudra,

VA là tính không của vạn pháp,

HUNG là hóa thân của loài người,

AH là báo thân thọ hưởng thành quả đạo pháp,

OM là pháp thân, cõi không thanh tịnh nguyên thủy Kuntzangpo (Kim Cương Giới).

Nếu mười hai chủng tự này của Đức Liên Hoa Sanh, được niệm ngược như vậy,

Thì một trăm ngàn biến sẽ làm cho thân, khẩu, ý thanh tịnh,

Hai trăm ngàn biến tiêu trừ nghiệp xấu ba đời,

Ba trăm ngàn biến đưa các người tới cấp bất thoái chuyền,

Bảy trăm ngàn biến giúp các người gặp Đức Đại Sư trong đời này,

Một triệu biến thành tựu bốn Mật hạnh,

Sáu triệu biến làm các cõi luân hồi trống rỗng,

Mười triệu biến tự đồng hóa với Phật A Di Đà,

Và sẽ đạt thần thông nào mình muốn.

Sẽ biết ích lợi của việc làm mầu nhiệm, nhiều hơn bằng chứng nghiệm.

Niệm suôi thần chú này sẽ đạt Niết Bàn:

OM là tình yếu của Năm Phương Diện Phật, và các Đấng Thiện Thệ,

AH là tính yếu của các thần chú của Năm Phật và các than chú tim,

HUNG là tinh yếu Tâm của Năm chư Phật và yếu tính của người,

VA được biểu lộ bằng thủ ấn tín tâm kiên cố,

JRA là thần thông từ bi kim cương,

GU là các Lama Heruka ba đời,

RU là giọt cam lộ giác ngộ và giải thoát,

PAD là cửa vào tịnh thổ an lạc,

MA là tự tại bước vào cõi an lạc,

SID là tự tại thi triền đại lực từ bi.

DHI là thần thông như ý

HUNG đắc quả tối thượng.

Vậy thần chú này là viên ngọc như ý,

Thực hiện bất cứ ý muốn nào xuất hiện trong tâm các người.

Hơn nữa, vì nó thanh lọc mười hai nhân duyên,

Nên nó là Đại Mẫu, tính chất của mười hạnh hoàn hảo.

Nếu thần chú này thực hiện bất cứ ý nguyện nào có trong tâm,

Thì tất cả những người đang ở đây và tất cả những người đời sau,

Nên tinh tấn niệm Thần Chú Tim này,

Giờ đây, trước khi tâm trí tán loạn của các người được phục hồi,

Thì việc ta ra đi có vẽ lá một sự phân cách. Nhưng hãy vui lên!

Khi tâm trí ổn định, các người và ta sẽ tái hợp.

Nguyện khắp nơi được hạnh phúc!”

Khi Đức Bà nói những lời giã từ này xong, làn ánh sáng lung linh nhiều màu rực rở lướt về hướng tây nam rồi mất dạng. Tất cả chúng tôi những người chứng kiến cuộc ra đi này đều phục lạy vô số lần về hướng ngài và cầu nguyện. Rồi với tâm trí đau buồn tấm lòng nặng trĩu, ruột gan rối bời, nước mắt ngập đường đi, chập choạng, không điều khiển nổi cơ thể, hơi thở nặng nề, chúng tôi trở về hang tham thiền ở giữa miền Zapu để trú qua đêm.

Sau đó Be Yeshe Nyingpo, Lasum Gyelwa Jangchub và Ma Rinchen Chok trình bày Mandala Guru và Dãkinĩ, sau bảy tháng thực hành, chúng tôi đạt sự hợp nhất với Guru và Dãkinĩ, nhận được tiên tri và quyền lực.

Vào lúc này Vua Tây Tạng Tri Repachan, Hộ Pháp, ban sắc lệnh đầu tiên của ngài triệu tập các dịch giả. Ở pháp hội này một số người kể lại việc Đức Bà Tsogyel nhập Niết Bàn với những chi tiết khác nhau. Có người nói rằng ở Mutik Pama Gangbuk, Tsogyel đạt diệt tận định, để lại màng mũi, răng, móng tay tóc và lông của mình trên giường những thánh vật này trở thành xá lợi có năng lực hỗ trợ các tín đồ về mặt vật chất. Họ cũng cho rằng khi xác thân của bà không còn nữa, Tsogyel đắc Phật Quả.

Những người khác nói rằng vào ngày mùng tám, tháng dậu, năm dậu, bà dạy các đệ tử những lời cuối cùng; vào tối mùng mười bà nhiếp phục ma quỷ; lúc nửa đêm bà quay bánh xe pháp; sau nửa đêm bà nhập định; khi trời gần sáng bà đạt giác ngộ; sau cùng vào lúc rạng đông thân mình của bà duỗi thẳng và bà nhập Niết Bàn. Nhục thân của bà biến thành một nắm xá lợi nhỏ có thể cầm trong lòng bàn tay và Đức Hộ Pháp ra lệnh mang xá lợi này lại cho ngài để đựng trong một cái bình. Sự thật là tôi, Gyelwa Jangchub và Be Yeshe Nyingpo, Ma Rinchen Chok, Odren Pelgyi Zhonnu, Dacha Rupa Dorje Pawo, Surya Tepa người Trung Tây Tạng, Liza Jangchub người Khotan, Dorje Tso người Shelkar, cùng với không dưới một trăm người may mắn khác đã được chứng kiến cảnh Đức Bà Tsogyel ra đi, chứng thực bản sự tích mà tôi đã kể ở trên.

Tới đây là chấm dứt chương thứ tám nói về ý nguyện của Đức Bà Yeshe Tsogyel, rốt cuộc đã được thực hiện và về việc bà đắc Phật Quả ở nơi thiêng liêng của cõi Pháp Giới.

THI GUHYA EVAM MANDA

SAMAYA GYA GYA GYA!

Khai Mật Tạng Taksham Samten Lingpa khám phá
Việt ngữ: Lục Thạch
Nguồn: Vũ điệu dakini – Đắc đạo