CHIA SẺ

Trong truyền thống Nyingma, ngài Jamyang Khyentse Wangpo là hóa thân về thân của Đức Jigme Lingpa. Ngài trở thành một trong các bậc Đạo sư vĩ đại nhất, người mà mọi dòng truyền thừa của Phật giáo Tây Tạng đều quy tụ. Ngài trở thành người truyền bá xuất sắc truyền thừa Nyingma, Sakya, Kagyu và nhiều giáo lý khác. Ngài được nhận ra là vị tái sinh của Đức Jigme Lingpa (1730 – 1798) bởi các vị dòng Nyingmapa và của Nesar Khyentse và Thartse Champa Namkha Chi-me bởi các vị dòng Sakyapa. Như là Jigme Lingpa, ngài cũng là hóa thân của vua Trisong Detsen, Vimalamitra, và nhiều Đạo sư khác. Ngài cũng là Đạo sư của mười ba truyền thừa và được coi là một trong năm vị Khai tạng mật vương trong một trăm terton chính yếu của truyền thống Nyingma.

Ngài được biết đến là Dorje Ziji, Pema Do-ngak Lingpa, Jigme Mepe De, Tsokye Lama Gyepe Bang, Kunkhyen Lama Gyepe Bang, Jigme Khyentse Dokar, Manjughosha và Kun-ga Tenpe Gyaltsen.

Ngài sinh ra ở gần Khyungchen Trak trong gia đình của bộ tộc Nyo từ làng Dilgo trong thung lũng Terlung, xứ Derge với vô số dấu hiệu diệu kỳ vào ngày năm tháng sáu năm Rồng Sắt thuộc chu kỳ Rabjung thứ mười bốn (tức năm 1820). Cha ngài là Rinchen Wangyal, một quan chức trong cung điện Dege, và mẹ ngài là Sonamtseo, một người gốc Mông Cổ.

Khi cha ngài hỏi Đức Dodrupchen đệ nhất liệu rằng ông ấy có nên trở thành một tỳ kheo. Đức Dodrupchen đáp rằng, “Đừng trở thành tỳ kheo. Nếu con không trở thành tỳ kheo và kết hôn, một vị tulku vĩ đại sẽ được sinh ra. Ngài sẽ trở thành suối nguồn lớn lao của những lợi lạc cho Pháp và chúng sinh.”

Từ thời thơ ấu, ngài đã nhớ lại các đời trước kia, và Ekajati và Mahakala đã xuất hiện trong hình tướng và năng lượng quanh ngài để dâng lên sự bảo vệ.

Lên tám tuổi ngài bắt đầu học tiếng Tạng, chiêm tinh, y học và nhiều bộ môn khác với cha ngài và Lamen Chotrak Gyatso. Ngài vô cùng thông minh và đã hoàn thiện việc tụng đọc và việc học viết mà không mấy khó khăn. Ngài cũng hiểu ý nghĩa của các bản văn thâm sâu chỉ với việc đọc chúng.

Một ngày khi ngài bị ốm nặng, trong linh kiến ngài được bởi Guru Rinpoche và Yeshe Tsogyal ban quán đảnh Vajrakilaya và các chướng ngại trong cuộc đời ngài được an dịu. Lên mười một, ngài đến tu viện Kathok, và chú ngài, Mokton đặt tên ngài là Jigme Khyentse Dokar, ám chỉ rằng ngài là tulku của Đức Jigme Lingpa.

Lên mười hai, Thartse Khenpo Kun-ga Tenzin công nhận ngài là tulku của vị thầy cũng là chú của ông ấy, Ngor Thartse Khenchen Champa Namkha Chi-me, một vị Khenpo vĩ đại của tu viện Ngor ở miền trung Tây Tạng, và người sau đó đã giảng dạy và thị tịch ở Lhundrup Teng, Dege. Đức Kun-ga Tenzin đặt tên ngài là Jamyang Khyentse Wangpo Kun-ga Tenpe Gyaltsen.

Lên mười lăm, trong một linh kiến thanh tịnh ngài đến Bồ Đề Đạo Tràng và được giao phó các đại luận về Prajnaparamita và Anuttaratantra bởi Đức Manjushrimitra. Trước mặt chùa Bồ Đề Đạo tràng, ngài tịnh hóa các lỗi lầm của thân bằng cách đốt nó và chuyển hóa nó thành thân thanh tịnh như của Đức Vimalamitra.

Lên mười sáu, trong một linh kiến thanh tịnh ngài đến Zangdok Palri, và thọ nhận sự giới thiệu đến Ba thân Phật và tiên tri rằng ngài sẽ trở thành “bậc thọ nhận bảy trật tự” từ Guru Rinpoche, cùng với tập hội Dakini. Sau đó Guru Rinpoche và chư Dakini tan vào Đức Khyentse, nói rằng:

Duy trì tánh không giác tánh tự nhiên một cách trần trụi,
Không vấy bẩn bởi đối tượng bị bám chấp
Không bị ô nhiễm bởi ý nghĩ bám chấp
Là quan kiến của Phật.

Lên mười tám ngài đến khu ẩn cư của tu viện Zhechen và nghiên cứu tiếng Phạn, thi ca, và nhiều môn khác với ngài Gyurme Thutop của tu viện Zhechen.

Lên mười chín, ngài thọ nhận trao truyền Longchen Nyingthig từ Đức Jigme Gyalwe Nyuku với nhiều dấu hiệu lạ kỳ. Sau đó, Lama Norbu, một đệ tử của Dodrupchen đệ nhất, ban cho ngài chỉ dẫn đến bản tánh của tâm khi đang trao truyền giáo lý Amitabha được phát hiện bởi ngài Dodrupchen. Thậm chí trong phần sau của cuộc đời, Đức Khyentse Wangpo đã nói rằng, “Không có gì tiến bộ hơn [trong việc chứng ngộ bản tánh của tâm] so với ngài chứng ngộ khi đó.”

Năm hai mươi tuổi, theo lời thỉnh cầu của Đức Thartse Khenpo, ngài đến tu viện Ngor ở miền trung Tây Tạng. Ở đây ngài tìm thấy rất nhiều giáo lý và đồ vật như một terma đất. Chúng bao gồm Thugje Chenpo Semnyi Ngalso, được tìm thấy ở Tragmar Drinzang; Lama Kuzhi Drupthap ở Damsho Nyingtrung; Tsasum Gyutrul Trawa ở Singu Yutso, và Tsasum Chidu ở Yarlung Sheltrak.

Năm hai mươi mốt, ngài thọ Đại giới tỳ kheo từ Khenpo Rigdzin Wangpo ở tu viện Mindrolling, miền trung Tây Tạng. Ngài nhận Bồ Tát giới từ Sangye Kun-ga, bậc trì giữ Pháp tòa thứ bảy của Mindrolling. Trước hình ảnh Jowo ở chùa Jokhang ở Lhasa, gạo ngài tung lên như vật phẩm cúng dường ngay lập tức biến thành hoa trắng, và một trăm ngọn đèn cháy mà không cần châm lửa. Khi ngài đang tụng đọc những lời cầu nguyện vì lợi ích người khác, ai đó đã thỉnh cầu ngài khẩn nguyện vì chính ngài. Ngài đáp rằng:

Không có bất cứ kẻ cai trị nào ở đây [trong tôi] hay bất kỳ đầy tớ nào ở đó,
Không có bất kỳ kẻ thù nào để chinh phục hay bạn bè để bảo vệ,
Ở nơi cô tịch, bằng cách điều phục tâm
Nguyện cho tôi có thể thành tựu các hoạt động rộng lớn của chư Bồ Tát

Năm hai mươi tư tuổi, tại Oyuk, trí nhớ của ngài về việc từng thấy Chetsun Senge Wangchuk và việc chứng ngộ thần ánh sáng của đại chuyển hóa sau đó được đánh thức, và ngài tìm thấy giáo lý Chetsun Nyingthig thâm sâu. Ngài đi hành hương như một vị tu khổ hạnh ở Tsang, Ngari, và miền trung Tây Tạng. Tại nhiều địa điểm, ngài nhìn nhận các hình ảnh như chư Phật hay Đạo sư thực sự và ngài có những linh kiến thanh tịnh và chứng ngộ thực sự. Cuối năm hai mươi tư tuổi, ngài quay trở về Kham và nghiên cứu giáo lý của truyền thống Ngor ở tu viện Dzongsar Tashi Lhatse.

Năm hai mươi chín tuổi, ngài đến miền trung Tây Tạng trong ba năm. Ở Gegye thuộc Changdrok, khi ngài đang nhận sự gia trì từ Guru Rinpoche trong một linh kiến thanh tịnh, ngài tìm thấy Sangdrup Tsokye Nyingthig như một terma tâm. Ở Samye, ngài nhìn thấy bức hình Tsokye Dorje tự biến thành Guru Rinpoche thực sự và hòa vào ngài. Kết quả là, ngài tìm thấy Tsokye Nyingthig. Năm ba mươi lăm tuổi, khi ngài đang thiền định về Đức Bạch Độ Mẫu, ngài có một linh kiến về Tara. Kết quả là, ngài tìm thấy Phagme Nyingthig.

Năm bốn mươi tuổi, trong một linh kiến thanh tịnh, ngài nhận được sự gia trì của Guru Rinpoche, điều cho phép ngài thấy tất cả các vị terton và các giáo lý terma xuất hiện trong quá khứ, đang xuất hiện hay sắp xuất hiện trong tương lai ở Tây Tạng. Kể từ thời điểm đó, ngài trở thành Đạo sư của tất cả các kho tàng.

Từ Đức Khenpo Pema Dorje, ngài nhận rất nhiều trao truyền bao gồm Longchen Nyingthig, Gyutrul Zhitro, Dupa Do, và mười bảy Mật điển. Từ Dzogchen Rinpoche đệ tứ, ngài nhận các giáo lý thông thường và siêu việt về Longchen Nyingthig. Ngài cũng nhận trao truyền Longchen Nyingthig từ Đức Jigme Gyalwe Nyuku và Jetsun Sonam Chokden. Sau đó ngài thọ nhận giáo lý của mọi dòng truyền thừa ở Tây Tạng từ khoảng 150 vị lạt ma trong mười ba năm. Ngài nghiên cứu hay nhận các trao truyền của hơn 700 bản. Chúng bao gồm các truyền thống Nyingma, Kadam, Sakya, Drikung, Taklung, Kamtsang, Drukpa và nhiều truyền thống khác.

Vị thầy chính yếu của ngài là Trichen Tashi Rinchen của dòng Sakya, Thartse Kun-ga Tendzin, Champa Naljor và Ngawang Lektrup của Ngor ở tỉnh Tsang thuộc miền Tây, Trichen Gyurme Sangye và Jetsun Thrinle Chodron của Mindrolling, và Lhatsun Rinpoche của tu viện Drepung thuộc tỉnh U, và Zhechen Gyurme Thutop, Jigme Gyalwe Nyuku, Migyur Namkhe Dorje, Khenpo Pema Dorje, và Kongtrul Lodro Thaye của tỉnh Kham thuộc miền Đông. Ngài thành tựu mọi thứ ngài nghiên cứu. Tuy nhiên, theo Đức Kyabje Dilgo Khyentse, thực hành chính yếu của Khyentse Wangpo là Guru Yoga của Longchen Nyingthig. Ngài chọn tu viện Dzongsar Tashi Lhatse của truyền thống Sakya làm trụ xứ chính và xây dựng lại nó sau sự phá hủy gây ra bởi thế lực Nyakrong.

Trong truyền thống Nyingma, ngài nhận được sự trao truyền hay trở thành kẻ thọ nhận của bảy hệ thống giáo lý:

1. Ngài nhận trao truyền của Mật điển cũ và mới.

2. Ngài tìm thấy rất nhiều kho tàng đất.

3. Ngài tìm thấy lại rất nhiều kho tàng đất đã được tìm thấy bởi các vị terton trước kia.

4. Ngài tìm thấy nhiều kho tàng tâm.

5. Ngài tìm thấy lại nhiều kho tàng tâm đã được tìm thấy bởi các vị terton trước kia.

6. Ngài tìm thấy nhiều giáo lý linh kiến thanh tịnh.

7. Ngài nhận các giáo lý khẩu truyền trong các linh kiến thanh tịnh từ nhiều Bổn tôn.

Đức Dodrupchen đệ tam, người đã học với ngài, miêu tả những trải nghiệm cá nhân với Khyentse Wangpo như sau:

Bất cứ nơi nào ngài sống, một hương thơm luôn tràn ngập xung quanh, điều này được tin rằng là dấu hiệu của trì giới tu sĩ cẩn mật của ngài. Thậm chí việc di chuyển ngón tay cũng đầy sự quyến rũ và ý nghĩa, và người ta trở nên không thể không đánh giá cao từng cử chỉ của ngài.

Bất cứ nơi nào ngài sống, bạn sẽ luôn cảm thấy hơi ấm dễ chịu, như thể từ một ngọn lửa trong giá rét. Rất nhiều người nhìn thấy ngài trong các hình tướng khác nhau của chư Phật hay Đạo sư trước kia.

Bất cứ mùa nào, trước ngài, mọi người đều thấy hoan hỉ và thịnh vượng của màu hè. Ngài vô cùng quan tâm đến người nghèo và nói với họ rất hòa nhã. Những kẻ ngu dốt và độc ác, được biết đến là người đàn ông dũng cảm sẽ chạy xa khỏi ngài, không quay đầu lại, như những kẻ tẩu thoát, hay sẽ quy phục như thể đầu bị rơi xuống.

Trước ngài, từng vị Đạo sư vĩ đại hay những nhân vật quyền lực trở nên tầm thường và khiêm nhường. Ngài rất khiêm nhường, chân thật và tốt bụng. Ngài khéo léo trong cả Pháp lẫn các giá trị đạo đức thế tục. Trước ngài, không ai dám nói những lời nịnh nọt hay dốt gạt. Ngài thuyết giảng cho những tập hội với sự tin tưởng lớn lao, như con sư tử giữa bầy động vật.

Giữa đám đông các đệ tử, ngài rất đơn giản và hài hòa với tất cả, và ngài với đúng lúc và với độ dài thích hợp. Tâm ngài nhanh như dòng sông đổ xuống vách núi. Giọng nói của ngài tràn ngập không gian như thể nó là những cơn sóng đại dương. Đôi khi ngài giảng dạy mà không ăn uống gì. Bởi sự lao tới của đệ tử và số lượng giáo lý, những khác đến thăm phải đợi hàng tuần hay thậm chí hàng tháng, nhưng mọi người đều cảm thấy vui vẻ khi chờ đợi.

Khyentse Wangpo xây dựng rất nhiều chùa và thư viện, và truyền cảm hứng cho hàng nghìn người tiến hành các hoạt động vì Pháp. Ngài chịu trách nhiệm xây dựng khoảng 2000 bức tượng, sao chép khoảng 2000 bản kinh, khắc gỗ khoảng 40 bản, đúc 100 bức tượng đồng mạ vàng, và tu bổ nhiều ngôi chùa và tu viện.

Trong nhiều thập kỷ, ngài ban những giáo lý và trao truyền cho các đệ tử từ nhiều truyền thống khác nhau. Ví dụ, ngài đã truyền quán đảnh Kim Cương Tát Đỏa được tìm thấy bởi Đức Minling Terchen khoảng năm mươi lần và quán đảnh và chỉ dẫn Longchen Nyingthig khoảng hai mươi lần.

Năm bảy mươi ba tuổi, đầu tháng một năm Rồng Nước (1892), ngài nói rằng ngài thấy Phật Vô Lượng Quang ở giữa đám đông đệ tử. Sau khi hoàn thành một nghi lễ chi tiết vào ngày 25 tháng một, ngài nói với Đạo sư cúng dường của ngài rằng, “Từ nay trở đi, ông không phải làm gì nữa.” Ngày hôm sau ngài bắt đầu hiển bày các dấu hiệu bệnh chướng. Các đệ tử hỏi rằng, “Chúng con cần thực hành cầu nguyện thế nào để thầy trường thọ?” Ngài đáp rằng, “Không. Khoảng ngày hai mươi tháng tới, ta sẽ khỏe lại.” Khi họ khăng khăng, ngài nói, “Sẽ tốt nếu các con tụng thật nhiều thần chú Trăm Âm.”

Sau đó vào buổi sang ngày 21 tháng hai, ngài rửa tay và nói rằng, “Hãy mang mọi thứ đi. Mọi công việc của ta đã hoàn thành.” Sau đó, tụng đọc rất nhiều lời cầu nguyện cát tường, ngài tung những bông hoa, dấu hiếu của sự hoàn thành. Sau hôm đó, ngài đã thâu thần thị tịch hòa vào cõi giới của tâm giác ngộ của ngài Vimalamitra. Ở vùng đất xung quanh, có rất nhiều trận động đất nhẹ. Sau khi thị tịch, khuôn mặt ngài vẫn sáng như thể mặt trăng. Thân ngài nhẹ nhàng như thể nó làm bằng cotton.

Các đệ tử chính dòng Nyingma của ngài gồm có Terton Chogyur Lingpa của tu viện Nangchen, Adzom Drukpa Drodul Pawo Dorje, Ju Mipham Namgyal, Terton Lerap Lingpa của tu viện Nyakrong, Jetrung Champa Jungne của tu viện Kham Riwoche, Teron Rang-rik Dorje, Đức Dodrupchen đệ tam, Amye Khenpo Tamcho Ozer, ngài Gyaltsap Gyurme Pema Namgyal, Đức Dzogchen Rinpoche đệ ngũ, Khenpo Kunzang Palden, Situ Chokyi Gyatso đệ nhị, Khenpo Lhagyal, Gyurme Ngeton Wangpo.

Các đệ tử dòng Sakya gồm có Sakya Dakchen, ba vị Jetsunma của tu viện Sakya, Kun-ga Tenzin dòng Ngor, Thartse Zhaptrung, Zhalu Losal Tenkyong, và Ngor Thartse Ponlop Loter Wangpo.

Các đệ tử chính dòng Kagyu gồm có Đức Karmapa mười bốn và mười lăm, Taklung Ma Rinpoche, Situ Pema Nyinche, Dazang Tulku, Dokhampa, Pandita Karma Ngedon, Kongtrul Yonten Gyatso và Samding Dorje Phagmo.

Các đệ tử chính dòng Gelug gồm Konchok Tenpa Rabgye, Lhatsun Tondrup Gyaltsen, Hor Khangsar Kyabgon và Lithang Champa Phuntsok.

Đức Khyentse Wangpo đã thị hiện rất nhiều hóa thân đồng thời. Trong đó có Chokyi Wangpo (1894 – 1909) của tu viện Dzongsar, Chokyi Lodro (1893 – 1959) của tu viện Kathok, Karma Khyentse Ozer (1896 – 1945) của tu viện Palpung, Guru Tsewang của tu viện Dzogchen, Kunzang Drodul Dechen Dorje (1897 – 1946) của tu viện Dza Palme, và Dilgo Khyentse Tashi Paljor (1910 – 1991) của tu viện Zhechen.

Trong số đó, ngài Kathok Khyentse Chokyi Lodro là bậc đạo sư xuất chúng nhất. Sau khi ngài Dzongsar Khyentse mất, Kathok Khyentse đến tu viện Dzongsar, trụ xứ của Khyentse Wangpo trước kia, và kể từ đó, Kathok Khyentse trở thành Dzongsar Khyentse. Kể từ đầu những năm 1960, Dilgo Khyentse, bậc trì giữ truyền thống độc đáo các hóa thân Khyentse, đã hoằng dương Phật Pháp không mệt mỏi ở Ấn Độ, Bhutan, Nepal, Tây Tạng và phương Tây.

Nguồn: kimcuongthua.org