CHIA SẺ

Trong Tăng Chi Kinh (Anguttara Nikāya), đã đưa ra một hình ảnh để minh họa hoài nghi như sau:

‘ Nếu có một bình nước bị vẩn đục, bị khuấy động và đầy bùn, cái bình này được đặt ở chỗ tối tăm, rồi một người có thị lực bình thường, nhìn vào bình, không thể nào nhận ra và thấy đúng được khuôn mặt của mình trong nước bùn đó. Cũng vậy, khi tâm bị ám ảnh bởi hoài nghi, bị áp đảo bởi hoài nghi, người ta không thể nào thấy đúng được lối thoát khỏi hoài nghi đã được khởi lên ấy ; và như vậy họ cũng không thể hiểu đúng và thấy đúng sự lợi ích của bản thân, lợi ích của người khác, và lợi ích của cả hai ; những pháp đã thuộc lòng trước đây còn không đi vào tâm (không còn nhớ được) nói gì đến những pháp không thuộc.’

Còn trong Eka- Nipāta của Anguttara Nikāya ( Tăng Chi Kinh ), Đức Phật nói như vầy :

‘ Này các Tỳ kheo, Ta không biết một pháp nào có sức mạnh như vậy, khiến cho hoài nghi chưa sanh, sanh khởi, hoặc hoài nghi nếu đã sanh, được mạnh mẽ và tăng trưởng như phi lý tác ý.

Nơi người nào không có như lý tác ý, hoài nghi chưa sanh, sẽ sanh khởi, hoặc hoài nghi đã sanh, có thể trở nên mạnh mẽ và tăng trưởng.’

‘ Này các Tỳ kheo, Ta không biết một pháp nào khác có sức mạnh như vậy, ngăn được sự sanh khởi của hoài nghi, nếu chưa sanh, hoặc hoài nghi, nếu đã sanh khiến cho được đoạn trừ, như như lý tác ý.’

‘ Nơi người nào có như lý tác ý thời hoài nghi không sanh, hoặc nếu đã sanh, nó sẽ được đoạn trừ.’

Trong sáu pháp dẫn đến sự đoạn trừ của hoài nghi, ba pháp đầu và hai pháp cuối giống với những pháp đã đưa ra trong hôn trầm và thụy miên. Riêng pháp thứ tư được giải thích như sau :

Có niềm tin vững chắc nơi Đức Phật (Buddha), Giáo Pháp (Dhamma), và Chư Tăng (Shaṇga).

Hành giả có thể trục xuất được hoài nghi nhờ sáu pháp này, như cuối cùng chỉ khi hành giả đắc tầng thánh thứ nhất (Tu-đà-hoàn Đạo) tuyệt diệt hoài nghi thì nó mới không khởi lên trong tương lai nữa mà thôi.’

Những đoạn trích từ Kinh Sa môn Quả   (Sāmaññaphala Sutta) của Trường Bộ Kinh (Dīghā Nikāya ) và Chú giải

Trước hết tôi sẽ đưa ra đây một đoạn trích từ kinh Sa môn Quả (Samaññaphala Sutta), ở đây Đức Phật nói với đức vua A-xà-thế (Ajātasatu) như vầy :

‘ Sau khi đã từ bỏ tham ái đối với thế gian, vị ấy sống với tâm không tham ; gột rửa tâm hết tham ái. Sau khi đã từ bỏ hết sân hận, vị ấy sống với tâm quảng đại, cảm thông với tất cả sự an vui hạnh phúc của tất cả chúng sinh ; gột rửa hết tâm sân hận. Sau khi đã từ bỏ hôn trầm và thụy miên, vị ấy sống với tưởng ánh sáng, chánh niệm và tỉnh giác ; vị ấy gột rửa hết hôn trầm và thụy miên. Sau khi đã từ bỏ hôn trầm và hối hận, vị ấy sống thoải mái với chính mình, với một cái tâm bình lặng ; vị ấy gột rửa hết trạo cử và hối hận. Sau khi đã từ bỏ hoài nghi, vị ấy sống như người đã thoát bỏ nghi, không lưỡng lự đối với những thiện pháp ; vị ấy gột rửa tâm hết hoài nghi.’

‘ Thưa đại vương,giả sử có người đi vay nợ và dùng nó vào việc kinh doanh của mình, và công việc của anh ta thành công, nhờ thế anh ta có thể trả hết nợ cũ và tiền còn lại đủ để nuôi dưỡng vợ con. Người ấy suy xét về điều này và nhờ vậy cảm thấy hài lòng, sung sướng.’

‘ Lại nữa, thưa đại vương, giả sử có một người bị bệnh, ốm đau trầm trọng, đau đớn, vì thế mà người ấy không thể thưởng thức các món ăn và sức khỏe suy yếu. Sau một thời gian người ấy khỏi bệnh, thưởng thức được các món ăn và phục hồi thể lực. Người ấy suy xét về điều này và nhờ vậy cảm thấy hài lòng, sung sướng.’

‘ Lại nữa, thưa đại vương, giả sử có một người bị giam trong tù. Sau một thời gian người ấy được thả ra khỏi nhà tù, an toàn, an ổn, không có mất mát tài sản. Người ấy suy xét về điều này, và nhờ vậy người ấy cảm thấy hài lòng, sung sướng.’

‘ Lại nữa, thưa đại vương, giả sử có một người bị làm nô lệ, không được tự chủ, phải phục vụ cho những người khác, không thể đi nơi nào hắn muốn. Sau một thời gian, người ấy được phóng thích khỏi cảnh nô lệ và lấy lại quyền tự chủ của mình ; người ấy không còn phải phục vụ cho những người khác nữa mà là một con người tự do có thể đi nơi đâu hắn muốn đi. Người ấy suy xét về điều này và nhờ vậy cảm thấy hài lòng, sung sướng.’

‘ Lại nữa, thưa đại vương, giả sử một người mang theo của cải và tài sản đi ngang qua sa mạc. Ở đây, thực phẩm khan hiếm và những nguy hiểm lại rất nhiều. Sau một thời gian, người ấy vượt qua được sa mạc và về đến làng an toàn, an ổn, không có hiểm nguy. Người ấy suy xét về điều này và nhờ vậy cảm thấy hài lòng, sung sướng.’

‘ Tương tự như vậy, thưa đại vương, khi một vị Tỳ kheo thấy rằng, năm triền cái này chưa được đoạn trừ trong tự thân, người ấy xem đó như một người mang nợ, như người bệnh, như bị giam hãm trong tù, như kẻ nô lệ, và như một con đường nguy hiểm.’

‘ Nhưng khi vị ấy thấy rằng năm triền cái này đã được đoạn trừ trong tự thân, vị ấy xem đó như thoát khỏi nợ nần, như người lành mạnh, như thoát khỏi tù tội, như thoát kiếp nô lệ, và như một nơi an toàn vậy.’

‘ Khi vị ấy thấy rằng, năm triền cái đã được đoạn trừ trong tự thân, hân hoan sanh. Khi vị ấy được hân hoan, hỷ sanh. Khi tâm vị ấy tràn đầy với hỷ, thì thân trở nên khinh an ; do thân khinh an, vị ấy cảm nghiệm được lạc thọ, do lạc, tâm vị ấy trở nên định tĩnh.’

‘ Hoàn toàn ly dục, ly các bất thiện pháp, vị ấy nhập vào và an trú trong sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.’

Đến đây, tôi sẽ đưa ra cho quý vị những trích đoạn từ chú giải, giải thích những ví dụ về năm triền cái và sự đoạn trừ của chúng như đã đề cập trong các đoạn trên :

Người đi vay nợ người khác và xài tiêu xài hoang phí hết món tiền đó thì không thể bảo vệ được mình khi chủ nợ đến đòi, họ sẽ nói năng với anh ta một cách khó nghe, hoặc họ sẽ trói anh ta lại và đánh đập anh ta ; anh ta phải chịu đựng tất cả những chuyện này, và món nợ là lý do anh ta phải chịu đựng nó.

Tương tự, nếu một người khởi lên tham dục đối với người khác và lấy (người ấy ) làm đối tượng của tâm tham, thời y phải hoàn toàn chịu đựng khi người ấy nói với y một cách khó nghe, hay khi người đó trói và đánh đập y ; và lòng dục của y là lý do khiến y phải chịu đựng điều đó. Một ví dụ là trường hợp của những người phụ nữ bị đánh đập bởi những gia chủ (chồng của họ). Như vậy tham dục phải được xem như món nợ.

Một người, sau khi đã vay nợ, dùng nó vào việc kinh doanh của mình và được thành công. Anh ta nghĩ, ‘ Món nợ này là một trở ngại chính,’ vì thế anh ta trả hết món nợ cùng với tiền lời và xé bỏ giấy hẹn trả nợ. Từ đó trở đi, không ai gửi giấy báo hay thư (nhắc anh ta về món nợ) nữa. Khi anh ta thấy người chủ nợ, anh ta có thể đứng dậy hay cứ ngồi yên trên ghế của mình, tùy thích. Tại sao  vậy ? Vì anh ta không còn ràng buộc vào họ, không còn bị lệ thuộc vào họ nữa. Tương tự, một vị Tỳ kheo nghĩ, ‘ Tham dục là trở ngại chính,’ vì thế vị ấy tu tập sáu pháp và đoạn trừ dục tham triền cái.   Khi vị ấy đoạn trừ được dục tham triền cái như vậy, lúc đó cũng như người thoát nợ, không còn cảm thấy sợ hãi, lo âu khi nhìn thấy chủ nợ như thế nào, vị Tỳ kheo cũng không cảm thấy dính mắc hay ràng buộc đối với bất kỳ ngoại cảnh nào như thế. Cho dù vị ấy có thấy những hình dáng đẹp tuyệt trần thì phiền não cũng không tấn công vị ấy. Do đó, Đức Thế Tôn mới nói rằng đoạn trừ dục tham cũng giống như thoát khỏi nợ nần vậy.

Người bị khổ sở với chứng bệnh đau mật, nếu có được người ta cho những món như mật ong và đường, anh ta cũng sẽ không thưởng thức được hương vị của chúng do bệnh đau mật của mình. Thậm chí anh ta nhổ những món ấy ra vì nghĩ chúng đắng. Tương tự, nếu một người với nội tâm sân hận được vị thầy có lòng từ mẫn giáo giới dù chỉ qua loa thôi, y cũng sẽ không chấp nhận lời giáo giới ấy. Thậm chí còn bác bỏ nó, nói rằng, ‘ Thầy đã áp bức tôi quá nhiều rồi !’ và bỏ đi. Cũng như người bị khổ sở vì chứng đau mật không thể thưởng thức được hương vị mật ong như thế nào, người bị khổ sở với sân hận cũng thế, không thể thưởng thức được hương vị giáo pháp của Đức Phật, đó là, lạc của bậc thiền (Jhāna)… Vì vậy, sân hận phải được xem như một chứng bệnh.

Một người khổ sở với bệnh đau mật biết chế ngự bệnh ấy bằng cách uống thuốc. Từ đó trở đi anh ta thưởng thức được hương vị của những thứ như mật ong và đường. Tương tự, một vị Tỳ kheo (Bikkhu) nghĩ, ‘ Sân hận là nguyên nhân chính của tai họa,’ vì thế,vị ấy tu tập sáu pháp và đoạn trừ được sân triền cái. Khi vị ấy đã đoạn trừ được sân hận, thì người khỏi bệnh đau mật ăn được những thứ như mật ong hay đường và thích thú với hương vị của chúng như thế nào, vì Tỳ kheo cũng vậy. Sau khi thành kính tiếp nhận những học giới như những công bố liên quan đến cách cư xử (hạnh), vị ấy học tập chúng và thích thú chúng. Do đó, Đức Thế Tôn mới nói rằng sự đoạn trừ sân hận cũng giống như được sức khỏe tốt vậy.

Vào ngày lễ hội, một người bị nhốt trong tù không thể thấy được đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của lễ hội. Nếu như hôm sau y được thả ra, và nghe người ta nói, ‘ Ồ, hôm qua có một lễ hội thật là vui ! Với những điệu múa, những bài hát như vậy ! ‘ Y không thể trả lời gì được. Lý do tại sao ? Bởi vì bản thân y không có tham dự lễ hội. Tương tự, nếu một vị Tỳ kheo bị hôn trầm và thụy miên áp đảo khi buổi thuyết Pháp (Dhamma) nói về những pháp môn khác nhau diễn ra, vị ấy không thể hiểu đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của bài Pháp.  

Khi buổi thuyết Pháp chấm dứt, vị ấy nghe mọi người tán dương thời Pháp, ‘ Ồ, thật là một thời Pháp tuyệt diệu ! với những lý lẽ và những ví dụ như vậy, như vậy !’ nhưng vị ấy không thể đưa ra một câu trả lời. Vì lý do gì ? Vì vị ấy bị hôn trầm và thụy miên chiến thắng và không thể thưởng thức được thời Pháp. Vì thế hôn trầm và thụy miên phải được xem như bị giam hãm trong tù vậy.

Một người bị nhốt trong tù vào một ngày lễ hội. Vào ngày lễ hội sau, y nghĩ,‘Trước đây do dễ duôi, ta đã bị nhốt trong tù, và vì vậy ta không thưởng thức được lễ hội. Bây giờ ta sẽ thận trọng lưu ý.’ Như vậy người ấy trở nên thận trọng, vì thế mà những kẻ xấu không có cơ hội (để làm cho y bị tù). Sau khi thưởng thức lễ hội, y thốt lên những lời vui sướng, ‘ Ồ, thật là một lễ hội tuyệt vời ! Ồ, thật là một lễ hội tuyệt vời !’ Tương tự, một vị Tỳ kheo nghĩ, ‘ Hôn trầm và thụy miên là nguyên nhân chính của tai họa,’ vì thế vị ấy tu tập sáu pháp và đoạn trừ được thụy miên, thì, như người thoát khỏi tù tội, thưởng thức được đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của Pháp (Dhamma) và chứng đắc Thánh Đạo cùng với tứ tuệ phân tích. Do đó, Đức Thế Tôn mới nói rằng sự đoạn trừ hôn trầm và thụy miên cũng giống như thoát khỏi tù tội vậy.

Một người nô lệ, ngay cả khi vui chơi tại một lễ hội, cũng có thể bị chủ nhân sai bảo, ‘Này có công việc khẩn cấp cho mi làm đây. Hãy đi đến đó nhanh lên ! Nếu mi không đi, ta sẽ chặt chân,chặt tay mi, ta sẽ cắt tai, cắt mũi mi đấy !’ Như vậy y phải nhanh chóng mà đi và không được thưởng thức đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối của lễ hội. Vì sao ? Vì y phải phục tùng cho những người khác vậy. Tương tự, khi một người không thiện xảo trong Luật (Vinaya) đi vào rừng sống độc cư (hành thiền), vị ấy có thể mắc phải một giới tội nhỏ nào đó, ngay cả nhận thịt không được phép (thọ dụng) là thịt được phép (thọ dụng). Thế là vị ấy phải từ bỏ sự độc cư của mình. Vì sao ? Vì vị ấy bị trạo cử và hối hận áp đảo. Như vậy trạo cử và hối hận phải được xem như tình trạng nô lệ.

Một người nô lệ, với sự giúp đỡ của một người bạn, đưa tiền cho chủ nhân của y và giải thoát y khỏi tình trạng nô lệ. Từ đó trở đi, y có thể làm những gì tùy ý muốn của y. Tương tự, vị Tỳ kheo nghĩ, ‘ Trạo cử và hối hận là nguyên nhân chính của tai họa,’ vì thế, vì ấy tu tập sáu pháp và đoạn trừ được trạo cử và hối hận. Khi vị ấy đã đoạn trừ được trạo cử và hối hận, thì, cũng như người được tự do có thể làm những gì mình muốn không ai có thể dùng vũ lực ngăn không cho họ làm điều đó, vị Tỳ kheo cũng vậy, an vui thực hành giải thoát đạo, và trạo cử và hối hận không thể dùng sức mạnh ngăn cản không cho vị ấy làm điều đó. Vì thế Đức Thế Tôn mới nói rằng sự đoạn trừ trạo cử và hối hận cũng giống như thoát khỏi tình trạng nô lệ vậy.

Một người đi trên con đường hoang vắng, sau khi đã nhìn thấy nguy cơ do những tay đạo tặc nhả ra giết người, trở nên lo lắng và sợ hãi, ngay cả âm thanh xào xạc của một cành cây hay của một con chim y cũng nghĩ rằng, ‘Những tay đạo tặc đã đến !’ Y đi tới một chút, dừng lại, rồi xoay lưng. Cứ như thế suốt cuộc hành trình những chỗ y dừng nhiều hơn cả những chỗ y đi. Y về đến nơi an toàn với đầy lo lắng và khó khăn, hoặc có thể y hoàn toàn không về được đến nơi nữa là khác. Tương tự, nếu hoài nghi về tám trường hợp đã khởi lên nơi một người, y sẽ tiếp tục hoài nghi, không hiểu ‘Bậc Đạo Sư có Giác Ngộ hay không ?’ và sẽ không thể nào giải quyết (nghi) và chấp nhận nó với niềm tin. Do không thể nào quyết nghi và chấp nhận với niềm tin, người ấy không đạt đến đạo và chấp nhận với niềm tin, người ấy không đạt đến đạo và quả.  Như vậy, cũng như người lữ hành trên hoang lộ, hoài nghi không biết có những tay đạo tặc hay không, cứ liên tục nổi lên tình trạng lưỡng lự và do dự, thiếu niềm tin và hoảng sợ, tạo ra một chướng ngại trong việc đi đến nơi an toàn của anh ta thế nào, vị Tỳ kheo cũng vậy, do hoài nghi không biết Đạo Sư có phải là một Bậc Giác Ngộ hay không, cứ liên tục khơi dậy tình trạng lưỡng lự và do dự, thiếu niềm tin và hoảng sợ, tạo ra một chướng ngại trong việc đi đến Thánh cảnh của mình (cảnh giới của Bậc Thánh). Như vậy, hoài nghi phải được xem như một con đường hoang vắng.

Một người khỏe mạnh, sau khi đã cầm những vật có giá trị lớn trong tay, có thể du hành qua sa mạc, võ trang đầy đủ cùng với đoàn tùy tùng của mình. Bọn đạo tắc thấy người ấy từ xa cũng sẽ bỏ chạy. Sau khi vượt qua sa mạc và đến một nơi an toàn, y sẽ vô cùng sung sướng và hồ hởi. Tương tự, vị Tỳ kheo nghĩ, ‘ Hoài nghi chính là nguyên nhân chính của tai họa,’ vì thế, vị ấy tu tập sáu pháp và đoạn trừ hoài nghi triền cái.  Khi vị ấy đã đoạn trừ được hoài nghi, thì, như người đàn ông khỏe mạnh võ trang đầy đủ cùng với những tùy tùng của mình, không sợ hãi, và xem những tên đạo tặc kia không hơn cỏ rác, an toàn đi trong sa mạc và đến một nơi an toàn, vị Tỳ kheo cũng vậy, vượt qua sa mạc tà hạnh đến nơi an toàn tối thượng, tức sự bất tử hay Niết Bàn. Do đó, Đức Thế Tôn mới nói rằng sự đoạn trừ hoài nghi cũng giống như một nơi an toàn vậy.

Đoạn từ sự đoạn trừ tham cho đến cảm nghiệm lạc thọ bởi một người có sự yên tịnh nơi thân được nói là thuộc về sự tu tập chuẩn bị định, chứ không phải tu tập an chỉ định. Nhưng trong trường hợp khi mà tâm của một người có lạc trở thành định, thì cả chuẩn bị định và an chỉ định được nói tới, vì lạc là nhân gần cho định cũng như sự tu tập cận hành (định), và bởi vì an chỉ của sơ thiền v.v… được thành tựu nhờ (phương tiện) tương quan nhân và quả. Nói khác hơn, giống như lạc của giai đoạn chuẩn bị, lạc của an chỉ cũng là nhân cho an chỉ định vậy.   

Mặc dù năm triền cái có thể được đè nén bằng Jhāna (bậc thiền) và đoạn trừ tạm thời bằng tuệ Minh Sát (Vipassanā), song nếu chúng chưa được bứng gốc bằng đạo tuệ, chắc chắn chúng sẽ khởi lên trở lại trong tương lai. Nói khác hơn khi quý vị mất Jhāna (thiền) và tuệ Minh sát, các loại tai họa khác nhau có thể xảy đến cho quý vị.

Đây là sự chú thích từ chú giải

Đừng dừng lại khi chưa đến đích

Mặc dù năm triền cái có thể được đè nén bằng Jhāna (bậc thiền) và đoạn trừ tạm thời bằng tuệ Minh Sát (Vipassanā), song nếu chúng chưa được bứng gốc bằng đạo tuệ, chắc chắn chúng sẽ khởi lên trở lại trong tương lai. Nói khác hơn khi quý vị mất Jhāna (thiền) và tuệ Minh sát, các loại tai họa khác nhau có thể xảy đến cho quý vị. Để chứng minh tầm quan trọng của việc nỗ lực liên tục cho đến khi đạt đến thánh đạo thánh quả, tôi sẽ liên hệ ở đây một câu chuyện được ghi lại trong Sammoha-vidodanī, chú giải Vibhaṇga (Bộ Phân Tích, một trong bảy bộ sách của Tạng Diệu Pháp) :

Một vị trưởng lão nọ là bậc đã đoạn tận các lậu hoặc (ám chỉ một bậc Alahán) nghĩ đến việc đi đảnh lễ tại ngôi Đại Điện ( thờ Xá-lợi Đức Phật) và cây Đại thọ Bồ đề ( tại Anrādhapurā). Tháp tùng ngài là một vị Sa di có các thiền chứng phục vụ như một thị giả, vì ngài từ một vùng quê đến ngôi Đại Tự này. Khi Tăng chúng đi đảnh lễ ngôi Đại Điện chiều hôm ấy, ngài không đi theo họ (để đảnh lễ). Vì sao ? Vì những vị đã đoạn tận lậu hoặc tin Tam Bảo là rất thiêng liêng. Do đó, khi Tăng chúng đảnh lễ xong và trở về, vào cái giờ mà mọi người đang ăn bữa tối, ngài ra đi một mình không thông báo cho vị Sa-di, với ý định đảnh lễ ngôi Đại điện.

Vị Sa-di nghĩ, ‘ Tại sao Trưởng lão lại ra đi ngoài một mình vào cái giờ bất thường như thế này ? Ta sẽ khám phá xem’. Và vị ấy đi ra ngoài, lần theo những bước chân của thầy tế độ [1]. Không hay biết sự hiện diện của Sa-di do không tác ý [2], vị Trưởng lão đi lên và vào trong khuôn viên của ngôi Đại Điện bằng cổng nam. Vị Sa-di, theo dấu chân ngài, cũng đi lên. Khi vị Trưởng lão nhìn đăm đăm vào ngôi Đại Điện, ngài cảm thấy say mê với hình ảnh Đấng Giác Ngộ kể như đối tượng và, tập trung toàn tâm toàn ý của mình, ngài đảnh lễ ngôi Đại Điện với niềm hỷ lạc vô biên. Nhìn thấy ngài đảnh lễ, vị Sa-di nghĩ, ‘ Thầy tế độ của ta đảnh lễ với lòng tràn đầy niềm hoan hỷ. Nếu như ngài có những bông hoa và dâng lên cúng dường thì sao nhỉ ?’

Chú thích : [1] Thầy tế độ là thầy cho xuất gia và dạy dỗ đệ tử

[2] Ở đây cần hiểu, mặc dù là một bậc Alahán, ngài có đủ khả năng để biết chuyện này, nhưng do không sử dụng trí (để tác ý) nên ngài không biết mà thôi.

Sau khi đảnh lễ xong, vị Trưởng lão đứng dậy và với hai tay chắp lại với nhau ở trên đầu nhìn vào ngôi Đại Điện. Vị Sa di đằng hắng cho ngài biết có sự hiện diện của mình. Vị Trưởng lão quay lại nhìn chú và hỏi :

‘Ngươi đến khi nào ?’

‘ Khi ngài đang đảnh lễ ngôi Đại Điện, bạch Trưởng lão. Ngài đã đảnh lễ ngôi điện thờ với niềm hoan hỷ vô cùng tận. Nếu như ngài có những bông hoa để dâng lên cúng dường thì sao ạ?’

‘ Đúng vậy, này Sa-di. Không ở nơi nào khác tập trung được nhiều xá lợi như ở ngôi điện thờ này. Ở một nơi tưởng niệm vĩ đại không đâu sánh bằng như thế, nếu có hương hoa ai lại không muốn dâng lên cúng dường chứ ?’

Vị Sa-di nói, ‘ Hãy chờ, bạch Trưởng lão, con sẽ trở lại.’

Nói như thế xong vị ấy nhập thiền (Jhāna) và, bằng năng lực thần thông của mình, bay đến Hy-mã-lạp-sơn (Himalayas),vị ấy bỏ đầy túi lọc nước [1] của mình những bông hoa thơm, sắc màu tươi đẹp nhất. Và khi vị Trưởng lão đến được cổng tây của ngôi điện thờ từ cổng nam, vị Sa-di đã đặt túi lọc nước đựng đầy hoa ấy vào tay ngài và nói :

‘ Bạch Trưởng lão, hãy dâng lên cúng dường.’

Trưởng lão nói :

 ‘ Những bông hoa này dường như quá ít, có phải vậy không ?’

‘ Cứ đi, bạch Trưởng lão, và khi cúng dường hoa hãy quán tưởng đến những ân đức của Bậc Giác Ngộ.’

Chú thích : [1] Túi lọc nước : Một túi vải như cái túi lọc café, được dùng để lọc nước uống ( một trong tám vật dụng của vị Tỳ kheo)

Vị Trưởng lão đi lên bằng cầu thang của cổng tây và bắt đầu cúng dường hoa trên sân thượng của hàng rào chấn song bên trong. Sân thượng đầy hoa. Những bông hoa rơi xuống tầng hai ngập lên đến gối. Từ đó đi xuống,ngài cúng dường hoa tại chân hành lang. Nơi đó cũng đầy hoa. Thấy hoa đã đầy, ngài đi xuống và rắc hoa trên nền đất ở phía dưới. Trưởng lão đã rắc đầy cả khuôn viên điện thờ. Khi tất cả đã đầy, ngài nói :

‘ Này Sa-di, hoa vẫn chưa hết.’

‘Hãy lộn ngược túi lọc lại, bạch Trưởng lão.’

Lộn ngược xong, ngài lắc lắc cái túi và những bông hoa đã hết. Trưởng lão đưa cái túi lọc nước lại cho vị Sa di và đi nhiễu quanh điện thờ cùng với Bức Tường Voi ba vòng về phía bên phải và đảnh lễ tại bốn cửa điện. Trên đường trở về phòng, ngài nghĩ, ‘Sa-di này thật là có năng khiếu về thần thông ! Liệu y có thể giữ gìn được những năng lực thần thông ấy không ?’(Và bằng khả năng của mình) ngài thấy rằng y không thể.

Trưởng lão bèn nói với Sa-di :

‘ Này Sa-di, hiện tại ông rất mạnh với những năng lực thần thông. Nhưng sau này, khi mà những năng lực đó mất đi, ông sẽ húp cháo gạo bóp bằng tay của một cô gái thợ dệt mù đấy !’

Chính do sự nông nổi của tuổi trẻ mà vị Sa-di đã không bị động tâm bởi những lời nói của thầy tế độ mà còn yêu cầu ngài :

‘ Hãy giải thích cho con một đề tài thiền đi, bạch Trưởng lão.’ Và y bỏ đi như thể không nghe thấy gì, nghĩ rằng, ‘ Thầy tế độ của ta đang nói cái gì thế nhỉ ?’

Sau khi đảnh lễ tại ngôi Đại Điện và Đại thọ Bồ đề xong, vị Trưởng lão bảo Sa-di cầm lấy bát và y (tăng- già- lê) của mình, và đúng thời họ đi đến Đại Tự Kutelitissa.

Vị Sa-di không đi khất thực theo thầy ; mà sau khi hỏi, ‘ Bạch Trưởng lão, ngài sẽ đi làng nào ?’

Khi y biết thầy tế độ của mình đã đi đến tại cổng làng, y cầm lấy y bát của mình cũng như y bát của vị Trưởng lão và, phi hành bằng đường hư không, y đưa y và bát cho vị Trưởng lão rồi đi vào làng khất thực.

Mỗi lần như vậy, vị Trưởng lão đều cảnh báo, ‘ Này Sa-di, chớ có hành động như vậy. Thần thông của hàng phàm nhân (người chưa đắc Thánh) không bền đâu ; chỉ cần lấy một cảnh sắc không thích hợp làm đối tượng chúng lập tức đứt ngay đấy. Và sau khi mất một thiền chứng, người ta không thể tiếp tục an trú vững chắc trong đời phạm hạnh được đâu.’ Nhưng vị Sa-di nghĩ, ‘ Thầy tế độ ta đang nói cái gì vậy ?’ và y không muốn nghe. Y vẫn tiếp tục làm như trước.

Đảnh lễ những ngôi tháp thờ xá lợi tại Đại Tự Kutelitissa xong, đúng thời, Trưởng lão đi đến Đại Tự Kupavena. Trong khi vị Trưởng lão trú ở đó, vị Sa-di tiếp tục sử dụng thần thông như trước. Thế rồi một hôm cô con gái xinh đẹp của người thợ dệt , đang độ tuổi thanh xuân đi ra khỏi làng Kupavena, và cô đi xuống hồ sen để hái những bông hoa sen ở đó, vừa làm vừa hát (như cô vẫn từng làm). Nhưng đúng vào lúc đó vị Sa di bay ngang (qua hư không) trên hồ sen, và, giống như người đánh cá mù trong cái sàng !? Y bị tóm chặt trong tiếng hát của cô. Lập tức những năng lực thần thông của y biến mất và y (rơi) không khác một con quạ bị cắt cánh. Tuy nhiên nhờ thiền chứng, y không đến nỗi rơi thẳng xuống nước, mà giống như một hạt bông chìm từ từ, y dạt vào nghỉ trên bờ hồ sen.  

Nhanh chân, y chạy đưa y bát cho thầy tế độ và quay trở lại. Vị Trưởng lão (nghĩ) ‘ Thật đúng như ta đã đoán trước ; nếu y bị chướng ngại, y sẽ không quay trở lại.’ Vị Trưởng lão không nói gì và lặng lẽ đi vào làng khất thực.

Vị Sa-di quay trở lại và đứng trên bờ hồ sen chờ cô gái lội lên khỏi nước. Cô gái đã thấy vị Sa-di bay qua hư không và [ bây giờ ] y đã quay trở lại và đang chờ, cô biết chắc chắn là vì cô mà y đã trở nên bất mãn ‘Xin lui lại bạch Sa-di,’cô nói. Y làm theo như vậy. Cô bước lên khỏi nước và, sau khi đã mặc quần áo, đi đến chỗ y. ‘ Có chuyện gì thế, bạch ngài ?’ cô hỏi.

Vị Sa-di kể lại sự tình của mình. Với nhiều lý lẽ cô gái chỉ ra cho thấy những nguy hiểm của đời sống gia đình và những lợi ích của đời phạm hạnh [nhưng] dù hết lời dỗ dành cô vẫn không thể nào xua tan được sự bất mãn của y. [ Suy nghĩ] ‘ Chính vì ta mà y đã mất những năng lực thần thông ; bỏ y lúc này thật là không phải,’ cô bèn nói y đứng chờ ở đó. Cô chạy về nhà và nói tất cả những gì đã xảy ra. Họ cùng đi đến và, mặc dù đã cảnh báo y bằng nhiều cách, song vì y không chú ý đến những lời họ nói : ‘ Chớ có xem chúng tôi là một gia đình sang cả, chúng tôi chỉ là những người thợ dệt. Liệu anh có thể làm công việc của người thợ dệt được không ?’

Vị Sa-di nói, ‘ Này cư sĩ, nếu tôi trở thành một người tại gia tôi sẽ làm công việc của người thợ dệt hay công việc của người đan rổ rá cũng được. Có gì nào ? Chớ có miễn cưỡng tôi một miếng vải [ để tôi mặc như người tại gia cư sĩ ].’

Sau khi đưa cho y một miếng vải để quấn quanh hông, người thợ dệt đưa y về nhà và gả con gái cho y. Học xong nghề dệt, y làm việc trong gian phòng lớn cùng với những người thợ dệt khác. Vợ của những người khác lo chuẩn bị bữa ăn từ sáng sớm và mang nó đến gian phòng lớn. Còn vợ của y không đến liền. Trong khi những người khác ngưng công việc để ăn cơm, y phải ngồi rầu rĩ với con thoi.

Cuối cùng thì vợ y cũng đến. Y trách vợ, ‘ Cô làm gì mà lâu thế mới đến !’

Và khi những người phụ nữ biết rằng tâm [ của một người đàn ông ] rất quan tâm đến họ, họ thường đối xử với y như kẻ nô lệ, cho dù y có là một vị Chuyển Luân Vương chăng nữa.

Vì thế mà cô vợ trả lời như vầy, ‘ Ở nhà người khác, rau củi, mắm muối và các thứ đồ ăn có sẵn, vả lại còn có người giúp việc cũng như tôi tớ từ ở ngoài đến nữa. Còn tôi thì chỉ có một mình. Anh không biết trong nhà anh cái gì có, cái gì không. Nếu anh muốn ăn  thì ăn, còn không muốn ăn thì đừng ăn, vậy thôi.’

Y nói, ‘ Chẳng những trưa trầy trưa trật cô mới mang cơm đến mà lại còn nói với tôi bằng những lời xúc phạm như thế hả ! ‘

Và thế là nổi cơn thịnh nộ, không tìm ra cái gì để đánh cô vợ, y kéo cái cán con thoi ra khỏi con thoi và ném nó [ vào cô ta ]. Thấy nó bay tới, cô xoay người tránh. Vì đầu cán con thoi rất bén nên nó đâm vào đuôi mắt của cô ta và cắm chặt ở đó. Lập tức cô đưa hai tay lên bưng mắt. Máu tuôn ra từ vết thương.

Ngay giây phút ấy, y nhớ đến lời nói của thầy tế độ. Thế là y bắt đầu khóc rống lên trong tiếng nức nở : ‘ Chính vì điều này mà thầy tế độ ta nói, “Trong tương lai sắp tới ông sẽ húp cháo gạo bóp bằng tay của cô gái thợ dệt mù đây sao.” Bây giờ những gì ngài tiên đoán đã trở thành sự thực. Ôi, ngài thấy xa biết chừng nào ! Than ôi !

Nghe thế những người kia nói :

‘ Thôi đủ rồi này ông bạn, đừng có khóc nữa. Có khóc con mắt hư cũng không lành lại được.’

Y nói, ‘ Tôi không khóc vì lý do đó. Mà tôi khóc vì điều này [điều của thầy tế độ tôi nói]’. Và y kể lại cho mọi người biết những gì đã xảy ra.’

Từ câu chuyện trên chúng ta biết rằng ngưng hành thiền chỉ và thiền Minh Sát(Vipassanā) sẽ dẫn đến tai họa như vậy. Và quý vị không nên theo tấm gương đáng thương này mà hãy cố gắng thực hành liên tục cho đến khi quý vị đạt đến thánh đạo và thánh quả mới thôi.

Sống theo Pháp

Có lẽ sẽ thích hợp để tôi chấm dứt bài giảng ở đây với bài Kinh được gọi là ‘ Sống theo Pháp (Dhamma)’ trong Anguttara Nikāya (Tăng Chi Kinh ) :

Lúc bấy giờ một vị Tỳ kheo đến thăm viếng Đức Thế Tôn, sau khi đến vị ấy đảnh lễ Đức Thế Tôn, đản lễ xong vị ấy ngồi xuống một bên. Ngồi xong, vị ấy nói với Ngài như sau :

‘ Bạch Thế Tôn, người ta nói : Sống theo Pháp, sống theo Pháp ! Bạch Thế Tôn, một vị Tỳ kheo sống theo Pháp là thế nào ?’

‘ Này Tỳ kheo, hãy suy xét, một vị Tỳ kheo tinh thông Pháp (Dhamma) : Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải hay Phương quảng- vị ấy dành trọn cả ngày để học Pháp (Dhamma) ; bỏ phế cuộc sống độc cư (để hành thiền) và không nỗ lực để an tịnh tự thân. Này Tỳ kheo, vị Tỳ kheo đó được nói là nhanh chóng tinh thông kinh điển, nhưng không sống theo Pháp.

‘ Lại nữa. này Tỳ kheo, hãy suy xét vị Tỳ kheo dạy Pháp cho người khác một cách chi tiết như vậy ấy được nghe, như vị ấy đã được học – vị ấy dành trọn cả ngày để thuyết phục những người khác về Pháp ; bỏ phế sống độc cư (để hành thiền) và không nỗ lực để an tịnh tự thân. Này Tỳ kheo, vị Tỳ kheo đó được nói là nhanh chóng thuyết phục, nhưng không sống theo Pháp.  

‘ Lại nữa. này Tỳ kheo, hãy suy xét vị Tỳ kheo, hãy suy xét vị Tỳ kheo lập lại đầy đủ Pháp, như vị ấy đã được nghe, như vị ấy đã được học nó – vị ấy dành trọn cả ngày để lập đi lập lại Pháp ; bỏ phế sống độc cư (để hành thiền) và không nỗ lực để an tịnh tự thân. Này Tỳ kheo, vị Tỳ kheo đó được nói là nhanh chóng lập lại Pháp, nhưng không sống theo Pháp.

‘ Nhưng, này Tỳ kheo, lấy trường hợp vị Tỳ kheo tinh thông Pháp (Dhamma) : Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Phúng tụng, Không hỏi tự nói, Như thị thuyết, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Trí giải hay Phương quảng- vị ấy dành trọn cả ngày để học thuộc lòng Dhamma ; không bỏ phế sống độc cư (để hành thiền) và nỗ lực để an tịnh tự thân. Này Tỳ kheo, vị Tỳ kheo đó được nói là người sống theo Pháp.

‘ Này Tỳ kheo, thực sự như vậy Ta đã nói về vị nhanh chóng tinh thông, vị nhanh chóng thuyết phục, vị nhanh chóng lập lại, vị nhanh chóng tư duy, và vị sống theo Pháp.

 ‘ Này, Tỳ kheo, những gì một vị đạo sư cần phải làm cho các đệ tử vì sự tốt đẹp của họ, những điều ấy Như Lai đã làm xuất phát từ lòng bi mẫn, từ lòng thương xót đối với họ. Này Tỳ kheo (hãy nhìn ) đây là những gốc cây, đây là những ngôi nhà trống. Này, Tỳ kheo hãy hành thiền, chớ có phóng dật ; chớ để tự trách mình về sau. Đây là lời giáo giới của Ta cho ông.’

Trên đây là những gì Đức Phật nói trong bài kinh gọi là Sống theo Pháp(Dhamma)’

Cầu chúc quý vị hành thiền thật chuyên cần và sống đúng theo Pháp.

Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw

Dây trói buộc và Vượt qua chướng ngại

Việt dịch: Tỳ kheo Pháp Thông