CHIA SẺ

Theo lịch sử, cái ấn đã được dùng như cái dấu hiệu chính thức chấp thuận ; mỗi ấn giữ một loại sự thật. “Ấn của sự trống rỗng” có thể phần nào nghe rất lạ tai đối với bạn : “Cái ấn trống rỗng ; trống rỗng có nghĩa là không gì cả. Làm sao có việc đó được ? Tại sao gọi nó là một ấn ?” Theo quan điểm Phật giáo, thể bất nhịtối thượng. Nó chứa đựng cái gì ? Nó ôm lấy từng mỗi hiện tượng hiện hữu, không có một ngoại lệ nào ; tính bất nhị bao trùm toàn bộ sự hiện hữu, cả hai phương diện tương đốituyệt đối.

Tất cả chúng ta trông khác nhau : ông, cô ấy, bạn tôi, cái này, cái kia. Người nào mà hiểu thấu tính bất nhị sẽ thấy được sự thống nhất nằm ngay dưới những hiển lộ khác nhau, những hình tướng riêng biệt. Khi chúng ta nhìn ngắm lẫn nhau, dường như tất cả chúng ta rất ư có thật, riêng biệt, không liên quan với nhau. Người nào chứng ngộ được tánh Không sẽ thấy chúng ta một cách cá biệt nhưng cũng là một tổng thể, như thể chúng ta là những giọt nước li ti trong đám mây có hơi nước. Đó là cái ấn. Nó nắm giữ – chứa đựng – tổng thể của bản tánh tuyệt đối, đích thị như nó là. Chúng ta dâng kinh nghiệm hỷ lạc của những đối tượng của năm giác quan lên Ngài Guru Vajrasattva với lời khẩn cầu mong có được sự hiểu biết về đại ấn nẩy nở trong chúng ta.

Tất cả hiện tượng chỉ hiện hữu như là những hình ảnh của sự suy đoán của trí óc. Bạn tạo ra sự biểu lộ và rồi bạn xúc tiến việc gắn nhãn hiệu cho hình tướng biểu lộ đó, tức là đặt ra ngôn ngữ cho thực tại đó. Tok-paš-par-zhak có nghĩa là được sản xuất hay được phóng chiếu bằng sự mê tín dị đoan. Và tất cả những sự vật, sự việc này hiện hữu thuần chỉ bởi sự gán tên. Không hề có chút xíu dấu vết sự tự hiện hữu trong bất kỳ hiện tượng nào. Bất cứ cái gì mà bạn coi là đẹp, xấu, tuyệt vời, ngon miệng, thơm tho, hay gì gì đấy, đơn giản đó chỉ là cái phóng chiếu của tâm mê tín của bạn.

Chính bởi vì như vậy mà quảng cáo mới có tác dụng. Các sản phẩm được trình bày rất đẹp, rất thành công, nhất định làm cho chúng ta vui sướngvân vân ; quảng cáo làm cho chúng ta tin tưởng rằng một sản phẩm đặc biệtgiá trị. Do kết quả đó, chúng ta bám giữ cái ta coi như là một đối tượng tự hiện hữu, độc lập. Ban đầu nó chẳng là gì nhưng rồi các nhà quảng cáo hình dung, tưởng tượng ra, tưởng nó thành một cái gì là lạ đặc biệt, và cuối cùng họ quyết định bày ra cho mọi người xem. Dĩ nhiên, đối tượng đó nhất địnhchức năng riêng của nó ở trên hai mặt tương đốituyệt đối nhưng chúng ta ôm giữ nó như thể nó tự hiện hữu. Chúng ta không nhận thức được tiến trình của các phóng chiếu mê tín.

Không phải dễ gì hiểu được tiến trình này. Bạn cần suy nghĩ sâu về diễn tiến của phóng chiếu đó và nhờ vào sự sáng suốt do sự soi rọi đó mang lại, bạn hãy quán chiếu rà xét cuộc sống hàng ngày của bạn sao cho bạn có thể thâu lượm một số kinh nghiệm về cái cách mà tiến trình phóng chiếu xảy ra, tiến triển. Chỉ có đọc hay nghe nói không thôi thì không thể hiểu được. Bạn phải soi rọi sự kiện mà tất cả hiện tượng hiện hữu, như các sự vật mà bạn cho là có ích lợi hay rất vui thú, các sự vật đó không có lấy một giá trị nội tại nào cho đến khi bạn cho nó một cái tên. Sự mê tín gán một cái nhãn hiệu thuộc tâm thức vào đó và ngay đó giá trị của sự vật đó xuất hiện. Nhưng trước đó, các sự vật không có lấy một sự thật đối với bạn. Đó là lý do tại sao các nhà quảng cáo phải làm việc cật lực mới làm cho các sản phẩm trở thành thật – có sức mua – đối với bạn. Dù gì họ cũng tử tế. Nhưng bổn phận của bạn là phải nhận ra được rằng bất cứ cái gì mà họ bày ra trước mắt bạn đều là sự phóng chiếu nhị nguyên của tâm mê tín ; bạn cũng nhận ra rằng cố gắng đạt được sự vui sướng tuyệt đối nhờ vào các đối tượng như vậy thì thật là chuyện viễn vông mơ mộng. Loại hiểu biết này rất có hữu ích trong việc giải thoát cái áp lực của tâm ái-ngã, bám víu, ý niệm hóa của bạn.

Tóm lại, toàn bộ sự hiện hữu hoàn toàn được gắn nhãn hiệu, giá trị của nó là do sự mê tín mang lại. Cái ảo tưởng nhị nguyên, ô nhiễm, bốc mùi hôi thối (dri-ma ngan-pai) này cần được tịnh hóa.

Mỗi đoạn trong phép thực hành này hàm chứa một chủ đề khác biệt. Bạn cần phải suy nghĩ sâu sắc toàn diện về mỗi chủ đề đó để biết rõ ràng cái gì bạn cần dẹp bỏ và cái gì bạn cần hoàn tất. Từ sự hiểu biết rõ ràng này bạn sẽ phát triển được một động cơ mạnh để tịnh hóa các lỗi lầm được nêu trong đoạn. Rồi bạn trì chú Vajrasattva với ba kỹ thuật thiền định khác nhau. Nếu bạn có thể thực hành như cách này thì sự tịnh hóa của bạn sẽ có cơ sở lý luận và do đó sự tịnh hóa đó rất trung thực và có sức mạnh rất lớn lao.

Giờ đây, thay vì tôi nói nhiều hơn nữa, chúng ta hãy thực hiện một thiền định ngắn. Hãy nghĩ như sau : Cách đây hai, ba trăm năm không hề xuất hiện bất kỳ đối tượng nào, sự vật nào được người ta gắn nhãn hiệu thuộc tâm thức vào nó như chúng ta thấy ở các siêu thị ngày nay. Rồi thì, người ta bắt đầu vận dụng trí óc, tri thức hóa, và các sự tưởng tượng mê tín nẩy nở. Rồi thì, người ta sản xuất Coca côla và tất cả những thứ có mặt trong siêu thị và chúng ta đã quen với chúng. Tất cả những thứ nầy đều do tâm mê tín sản xuất và gắn nhãn hiệu. Nhưng về bản thân các đối tượng, chúng nó không hề có một dấu vết nhị nguyên hay tự-hiện hữu. Sự biểu hiện có tính nhị nguyên sẽ còn bao lâu mà chúng ta muốn nhìn chúng với tâm nhị nguyên. Khi chúng ta nhìn thấy được cái tổng thể thì những biểu hiện nhị nguyên đó sẽ biến mất. Các bạn và tôi là một tổng thể bất nhị. Hãy thấy được cái tổng thể (cái một) hãy cảm giác cho được cái tổng thể. Cái tổng thể khôngý tưởng tốt hay xấu, xinh đẹp hay khó coi. Giờ đây, các bạn hãy thiền định cái tổng thể với sự tỉnh giác cao độ.

Ở trước, chúng ta đề cập tới “đại ấn tánh Không.” Đạo Phật tin tưởng rằng tất cả con người có khả năng hiểu biết được bản tánh chân thật của chính bản thân chúng ta, rằng việc triển khai sự hiểu biết đó là điều quan trọng nhất mà chúng ta có thể làm. Tất cả các chướng ngại, vấn đề, rối loạn, lẫn lộn, bất mãnchúng ta kinh nghiệm được đều là do việc chúng ta đã không phát triển sự hiểu biết này và như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ thoát được cảnh nô lệ cho đến khi nào chúng ta triển khai sự hiểu biết đó. Vấn đề chính yếu của con người là thiếu sự hiểu biết thực tại của chính chúng ta.

Do đó, bất kể bạn đang chọn lựa giáo lý nào, thì tất cả giáo lý của đức Phật đều hướng trực tiếp vào việc giúp đỡ chúng ta chứng nghiệm được cả hai : bản chất có tính quy ước của cuộc sống chúng ta và tổng thể bao trùm hết thảy hay là tánh Không. Cả hai đều là sự quan trọng lớn lao.

Cho nên đoạn thứ năm này đề cập đến lý thuyết có tính khoa học của đạo Phật về thực tại, trước hết mô tả mọi cách thức quy ước – có tính tương đối và tương thuộc (duyên sanh) – trong đó tâm và thân của chúng ta hiện hữu. Ngay khi tâm chúng ta thấy được các sự hiện hữu theo quy ước này, nó liền cố nhận diện thực tại của cái mà nó thấy để hiểu được thực tại của sự hiện hữu của chính mình, sự hiện hữu của những người khác, của vũ trụ, của tất cả các hiện tượng. Và rồi chúng ta kết thúc bằng cách nào ? – Bằng cách đặt tên những đối tượng tri giác đó trong ý định cung cấp cho chúng cái thực tại.

Đó là những gì mà thuật ngữ tok-paš par-zhak diễn đạt, tức là, một cái gì đó đang ở đó – chẳng hạn một quả đào – và điều chúng ta cố gắng làm là nhận diện thực tại của nó. Cho nên chúng ta cho nó cái tên “quả đào” để thể hiện thực tại của nó. Nhưng thực ra, thực tại chân thật của quả đào đích thực là một tập hợp của những phần tử chuyển động không ngừng của nó ; những thành phần chính xác đã tập hợp lại, trái cây đó đã phát triển theo tính hữu cơ, và trong chừng mực nào đó, cái quả ấy đã sẵn sàng để ăn được. Nếu không kể đến sự hỗ tương tùy thuộc bề ngoài này, không kể tới sự chuyển hóa từng sát na của những thành phần đã cấu thành quả đào, thì bạn không thể thêm vào sự hiện hữu của nó một chút đỉnh chiều kích nào hơn được nữa ; làm như vậy chẳng qua là phóng đại mà thôi, hay chẳng qua bạn đánh giá quá đáng chất lượng của nó.

Khi chúng ta hiểu được cách thức phối hợp, hỗ tương tùy thuộc của sự hiện hữu của quả đào, năng lực vô thường của nó, màu sắc và xung động của nó, cũng như mối quan hệ giữa chúng ta và quả đào, chúng ta mới bắt đầu hiểu được thực tại toàn bộ của quả đào đó – hay ít nhất, chúng ta mới có khả năng trong tương lai gần sẽ hiểu được thực tại của nó.

Việc đầu tiên chúng ta phải chứng nghiệm – và việc này rất quan trọng – đó là cách thức mà cái “tôi” quy ước – cái ngã này – hiện hữu, và nó hoạt động như thế nào. Nếu bạn nghiệm xét điều này cho kỹ, bạn sẽ thấy được rằng nó hiện hữu chỉ bởi một lẽ duy nhất là cái tâm của bạn gán ghép một nhãn hiệu tạm bợ vào một tập hợp bộ phận giống như bong bóng nước : “Nó là cái này – cái nọ” sự kết hợp cái tên cùng với cái mớ bong bóng đó tạo nên thực tại quy ước của đối tượng. Ngoài điều này thì không có lấy một thực tại độc lập nào cả : đó hoàn toàn chỉ là quy ước thôi.

Tương tự như vậy, bất cứ khi nào bạn trông thấy một thân thể đẹp đẽ ; bạn hãy nhớ rằng cái thân ấy đơn thuần chỉ là một sự kết hợp có tính duyên khởi của các rung động do tâm đặt tên mà có. Nếu bạn có thể hiểu được sự thật quy ước theo cách này, bạn sẽ loại bỏ được sự phóng đại hay sự giảm bớt theo thói quen của bạn đối với sự thật tương đối. Đó là con đường trung đạo của Phật giáo, con đường trung đạo này là cách loại bỏ sự mê lầm và làm cho bạn trở nên khỏe mạnh. Điều này làm được bằng cách chạm được vào thực tại, hiểu thấu đáo bản chất thật của cách thức hiện hữu của chính bạn. Đây là cánh cửa mở ra sự thỏa mãn. Theo quan điểm Phật giáo, nếu bạn không hiểu được bản chất thật của thực tại quy ước thì dù bạn có bàn tới sự hiểu biết về thực tại tuyệt đối cũng chỉ là chuyện viễn vông mơ mộng cho bạn mà thôi : bạn không có cách nào hiểu được thực tại tuyệt đối.

Đó là lý do tại sao các giáo lý Phật giáo luôn luôn bắt đầu với sự giải thích về vấn đề nan giải của con người : Con người là gì ? Con người sở hữu những phẩm tính gì ? Con người đương đầu các vấn đề gì ? Triết lý, tâm lý học, học thuyết nhà Phật… tất cả đều liên quan với sự thật về con người : Làm sao loại trừ tận gốc rễ tất cả các vấn đề của chúng ta ? Nói cách khác, làm sao chúng ta trở nên giác ngộ, hay, theo như thuật ngữ triết học, làm sao chúng ta nhập làm một với tổng thể của cái “đang là”, như được giảng giải trong giai đoạn hoàn tất của Kim Cương thừa ?

Mới gần đây tôi đã bắt đầu để ý tới mùi vị của các quả đào. Vào một ngày, Age, một đệ tử của tôi đưa tôi đi mua đào, chúng tôi thỏa thuận sẽ chọn mua những quả đào ngon. Cả hai chúng tôi chọn được một số. Đêm qua Age và tôi ăn đào và Age thấy được một quả bị thối rữa ở bên trong. Ông ta nói : “Tôi đã chọn quả này, tôi cho rằng quả này tốt, ngon, tươi, nhưng giờ đây nó đã thối”. Ông ta tự nhận sự việc đó mà không cần tôi nói điều gì cả !

Tôi kể ra câu chuyện này bởi vì đó là một ví dụ rất tốt về những gì chúng ta làm. Chúng ta cầm lên tay một cái gì đó, chạm được vào nó, xem xét kỹ lưỡng và cuối cùng tuyên bố : “Đây là món ăn tốt.” Nhưng khi chúng ta mang về nhà thì nó đã thối rữa. Giờ đây, vấn đề chính là – chúng ta đã gắn nhãn hiệu “quả đào” cho một chất đặc biệt – nhưng thực tại của cái chất đó là ? Có phải quả đào thối rữa là quả đào không ?

Trong một chừng mực nào đấy, chúng ta cứ cho là việc đặt tên quả đào cho một vật tức là chạm tới được thực tại của nó ; nhưng theo quan điểm Phật giáo đây là một việc hết sức phiếm diện, bề ngoài. Tâm nông cạn bề ngoài đó đặt tên một cái gì đó nhãn hiệu “quả đào”, và rồi một quả đào trở nên hiện hữu. Nhưng với sự mê lầm của chúng ta, chúng ta nghe được danh từ quả đào và một quả đào cụ thể đi vào trong nhận thức của chúng ta. Nhưng không có một sự vật gì đích thị là một quả đào cụ thểhiện hữu bẩm sinh, độc lập, thường hằng – như vậy. Xét về phương diện cơ bản, mối quan hệ giữa cái tên quả đào và thực tại của quả đào, đối với chúng ta, chỉ là một sản phẩm của vô minh, được nảy sanh do việc chúng ta không chạm vào được thực tại của quả đào.

Thay vì nghĩ quả đào là quả đào, hãy thử gọi nó là “John !” Hãy cho nó một cái tên của con người. Chúng ta có một ý tưởng cố định về cái tên John. Nếu tôi hỏi bạn tại sao ông ta được gọi là John, ông ta đã phải chắc chắn có những phẩm chất gì để được gọi là John v.v…, thì bạn trả lời cái gì đây ? Câu trả lời của bạn sẽ rất phiếm diện, hời hợt. Thậm chí, câu trả lời của bạn sẽ không nói tới hàm râu của ông ta nữa. Cái tên John đâu có bao gồm hàm râu ông ta ! Cái tên đó có thể chỉ kể tới một phần rất nhỏ thực tại của ông ta, nhưng ngay cả điều đó cũng đáng nghi ngờ.

Điều rất quan trọng mà đạo Phật quan tâm là bạn đừng vội vã phóng vào những kết luận cố định chấp chặt như “Anh là John, tôi biết anh nhất định là vậy.” Và thay vì vậy, bạn hãy xem xét lịch sử – quá trình tiến hóa – của cái phóng chiếu đó, tại sao ông ta được cho cái tên đó. Rồi thì bạn sẽ thấy sự việc “ông ta nhất định là ông John” thật không đúng tí nào cả. Các tên được gán cho những sự vật và những con người theo một cách thức rất giả dối và hầu như chẳng dính dấp gì cả với thực tại của những đối tượng đã được đặt tên. Bạn hãy xem xét lai lịch của những cái hiện hữu theo quy ước và bạn sẽ thấy tại sao đạo Phật nói tok-paš par-zhak có nghĩa là tâm mê tín, phiến diện làm nên một phóng chiếu cố định, đặt tên và quan sát một con người đang sống động. Đó là tất cả những gì mà tâm đảm nhận để buộc chúng ta vận hành. Chúng ta rất yên chí, chắc chắn rằng chúng ta biết chúng ta là gì. (Thế nhưng) làm sao chúng ta có thể chắc chắn khi chúng ta chọn những quả đào bị hư thối nhưng lại tin là những quả đào ấy rất ngon ?

Theo quan điểm Phật giáo, dạng hiện hữu thân người là một dạng đời sống sâu sắc nhất, tinh tế nhất – rất khó hiểu hơn nhiều so với dạng trái cây như quả đào. Rất ư khó khăn để hiểu thấu đáo được chúng ta là ai, chúng ta là gì, và cũng rất khó để hiểu được bản chất chân thật của cách thức hiện hữu của chúng ta trên hai mặt tuyệt đốitương đối. Nhưng việc triển khai sự hiểu biết này là có giá trị nhất, đáng làm nhất.

Chính đức Phật đã nói : “Ta nói với một số đệ tử này rằng sự vật thực sự hiện hữu, nhưng đối với một số đệ tử khác, Ta lại nói rằng sự vật không thực sự hiện hữu. Ta giải thích sự vật bằng những cách khác nhau như vậy là vì tùy theo các tình huống. Có vẻ như thể Ta mâu thuẫn chính mình, nhưng bất cứ cái gì Ta dạy đều chỉ để dẫn dắt các đệ tử cá biệt đó đến chỗ hiểu biết tốt hơn về thực tại. Do đó, không nhất thiết tin vào cái gì đó chỉ bởi vì Ta đã nói như vậy.” Mọi điều đức Phật đã dạy là để giúp chúng ta khám phá hai mức độ sự thật : sự thật tương đốisự thật tuyệt đối của cách thức hiện hữu của chính chúng ta. Tất cả giáo lý của Ngài là nhắm vào mục đích này.

Làm sao chấm dứt được mê lầm ? Trước hết hãy nhận biết rằng, trên thực tế, tâm bị lừa dối là đang bị lừa, rằng các ý niệm của tâm là sai lầm. Việc nhận biết những mê vọng đối với những gì hiện hữu là cách duy nhất để đập bể các ảo tưởng đó. Bởi thế bạn phải giải quyết tâm của bạn, bạn hãy phân tích nó, theo dõi quán sáttoàn diện để loại bỏ sự mê lầm, nhầm lẫn của bạn.

Mới đây tôi có nghe rằng một số nhà khoa học coi bộ óc tương tự như một máy chụp hình. Dĩ nhiên đối với họ, “bộ óc” là những gì mà chúng ta gọi là tâm thức. Nhưng họ đưa tới những kết luận như chúng ta. Họ nói bộ óc chụp hình một rung động nhất định, nhưng thực tại của thực thể hiện hữu đó là một cái gì khác hẳn. Tôi thấy điều đó rất lý thú. Sự mô tả của các nhà khoa học cũng y như của đức Phật : sự hiện hữu quy ước chẳng gì khác hơn là sự tập hợp các năng lực duyên sanh (phụ thuộc tương quan). Không có một cái gì hiện hữu cụ thể thường hằng ở đó, chờ đợi chúng ta. Chúng ta, và đặc biệt là các người Tây phương, luôn cảm thấy rằng một người bạn đường ở ngoài kia tuyệt vời nào đó đang chờ đợi chúng ta. Có lẽ đó là lý do tại sao chúng ta rất khó thấy được thực tại.

Một ví dụ ưa thích khác của tôi là máy gia tốc tuyến tính. Họ chụp hàng triệu bức hình của một hạt thể đang tăng tốc qua cùng một khoảng cách trong những điều kiện được kiểm soát hoàn toàn, họ cố có được những bức hình giống nhau, nhưng mỗi tấm hình hóa ra lại khác với nhau. Tại sao ? Bởi vì họ đã quay phim một hiện tượng tương đối, không thường hằng, phụ thuộc vào các điều kiện. Họ nghĩ rằng họ bị mất dấu vết cho dù họ có chụp được bao nhiêu bức hình đi nữa. Chúng ta quá thô sơ đến nỗi ngay cả một chuyển động quy ước của một quá trình thay đổi mà chúng ta cũng không thể thấy được. Ví dụ này chỉ cho thấy các ý niệm và các nhận thức bằng giác quan của chúng ta thực sự bị lừa dối biết bao.

Theo quan điểm của tôi, sự suy nghĩ về cách thức mà thân thể bạn hiện hữu, cách thức người bạn của bạn hiện hữu, đích thị là một trong những kiểu thiền định tốt nhất. Nó làm cho bạn phát sợ : thay vì gắn bó với người bạn của bạn thì bạn hóa ra sợ ông ta. Thậm chí bạn có thể thấy ông ta dưới hình thức một bộ xương. Đó là cách tốt nhất để loại bỏ sự lo lắng, sự gắn bó ôm giữ và sự tập trung vào cái tôi của bạn.

Đa số người ta hiểu sai nghĩa của sự thiền định. Họ nghĩ rằng thiền định là việc chỉ làm cho bạn tê cứng. Thiền định giúp bạn vượt qua được những sự phân tán của cái tâm bị ô nhiễm, gây ra ảo giác, và nó mang tâm đến gần hơn với thực tại. Tôi cho rằng thiền định phải nên như vậy. Lama Je Tsong Khapa đã nói, có hai cách thiền định : phân tích và tập trung vào một điểm. Có thể ngay bây giờ đây chúng ta đang thiền định. Chúng ta đang vận dụng tri thức, nhưng dù như vậy, thì tâm chúng ta đã vào được một loại vùng tâm linh nào đó.

Giờ đây tốt hơn tôi nên quay trở lại bài kinh. Tất cả những lời cầu nguyện này đều lưu ý đến sự nhị nguyên : phân biệt việc này, phân biệt việc khác. Tâm chúng ta không ngừng đối xử với các hiện tượng quy ước nên chúng ta luôn ở trong mâu thuẫn. Đừng nghĩ rằng khi nói “mâu thuẫn” là tôi ám chỉ đến sự xáo động ghê gớm. Có những mức độ mâu thuẫn, mức mâu thuẫn này lớn hơn mâu thuẫn kia. Khi tâm chúng ta khởi động trên cơ sở các hiện tượng quy ước, thuộc ý thức hay tiềm thức, lúc nào cũng có ít nhất hai sự việc đối nghịch nhau. Tâm ta luôn so sánh sự việc này với sự việc kia. Và như vậy toàn bộ trình tự này là hành vi nhị nguyên. Đối với chúng ta, không có sự vật nào có thể hiện hữu ngoài việc chúng ta đang so sánh hai sự việc với nhau. Bạn sẽ không có được cái gì, những sự vật gì như vậy vì mọi thứ đều nhị nguyên. Nhưng đừng nghĩ rằng chỉ có cái lưỡng cực tốt-xấu là nhị nguyên. Bản thân cái tốt có thể là nhị nguyên : cái mà bạn cho là tốt thường đích thị là một sự tưởng tượng. Tất cả các hiện tượng mà bạn cho là tốt và xấu đều manh động theo tính nhị nguyên bởi vì tất cả chúng nó đều có tính tương đối, và ngay cả những lúc bạn đang kinh nghiệm được lạc thú thì niềm vui đó cũng nhị nguyên bởi vì nó bị hạn chế. Lạc thú của bạn bị hạn chế bởi vì bạn nói năng, cử động, làm lụng trong cái khung, cái khuôn khổ nhị nguyên. Nếu bạn phá tan tành được cái khung nhị nguyên này bạn mới kinh qua được niềm vui vô hạn.

Đức Lama Thubten Yeshe

Con đường Kim Cương Thừa về sự tịnh Hóa

Việt Dịch: Kiến Khống